Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (sản phẩm in) giữa bên mua ở Đức với bên bán ở Ý xét xử tại Tòa án quận của Đức
1. Các bên tranh chấp
Nguyên đơn: Bên mua (Đức).
Bị đơn: Bên bán (Ý).
Cơ quan giải quyết tranh chấp: Tòa án quận của Đức.
2. Diễn biến tranh chấp
Bên mua đã kiện người bán về các thiệt hại do không đáp ứng được ngày giao dịch thương mại đã được ấn định (fixed commercial date). Bên mua là một nhà xuất bản của Đức, bên bán là một công ty in ấn của Ý chủ yếu thực hiện các đơn đặt hàng in tại Trung Quốc.
Sau cuộc đàm phán giữa một nhà môi giới thương mại hoạt động tự do và bên mua bằng tiếng Đức, bên mua đã gửi thư bằng tiếng Đức có lời chào hàng (không có chữ ký) để in 124.104 cuốn sách hướng dẫn cho các khu vực khác nhau và giá ròng là 0,475 đồng euro và tổng giá ròng là 58.949,40 euro cho nhà môi giới thương mại. Chào hàng này bao gồm các cụm từ sau: “Ngày 15/07/2011. Ngày giao dịch ấn định theo giá FOB, nơi có quyền tài phán là Cologne. Luật pháp Đức áp dụng bổ sung. Thư kết thúc với một yêu cầu “…gửi một xác nhận đơn hàng ràng buộc cho đến ngày 21/04/2011”.
Chủ tịch của công ty bên bán đã ký hoặc ký tắt chào hàng của bên mua ở dưới cùng bên phải của mỗi trang. Chào hàng đã ký/đánh dấu được giao cho nhà môi giới thương mại bởi một nhân viên của bên bán. Thư bổ sung có chứa cụm từ: vui lòng tìm bản đính kèm chào hàng đã ký. Nhà môi giới thương mại đã chuyển tiếp chào hàng đã ký cho bên mua. Trong thư bổ sung nhà môi giới đã viết “đây là đơn đặt hàng của bạn với chữ ký của giám đốc điều hành của bên bán trên mỗi trang để xác nhận.
Đằng sau ngày ấn định là nghĩa vụ của bên mua để giao sách hướng dẫn đến siêu thị liên quan đến chào hàng ưu đãi. Bên mua hiểu chữ ký của bên bán là chấp nhận lời chào hàng. Sau đó, cả hai bên bắt đầu với việc thực hiện hợp đồng. Thông tin liên lạc được thực hiện bằng tiếng Anh.
Các bên đã thực hiện một lệnh in trước khi tranh chấp bắt đầu, dựa trên một chào hàng cơ bản tương tự như trường hợp này. Liên quan đến chào hàng đầu tiên này, bên mua đã mở thư tín dụng cho người bán với giá trị bằng số tiền chào hàng. Các bên bất đồng về các khiếu nại phát sinh từ giao dịch này.
Trong khoảng thời gian từ ngày 30/05/2011 đến ngày 09/06/2011, các mẫu in đã được phê duyệt liên tiếp và khi cần thiết đã được sửa. Bên bán đã giao các hộp mẫu vào ngày 13 tháng 6 năm 2011. Vào ngày 10/07/2011, nhà môi giới thương mại đã thông báo cho bên mua rằng sẽ có sự chậm trễ do thiếu giấy và do đó việc giao hàng chỉ có thể được đảm bảo vào ngày 12/8/2011 (FOB).
Bên mua yêu cầu từ người môi giới việc tuân thủ ngày giao hàng đã thỏa thuận và nêu trong một lá thư ngày 11/07/2011 về trách nhiệm pháp lý đối với việc không đáp ứng ngày giao hàng đã thỏa thuận. Bên mua đề xuất tiến hành in tại Ý nếu không thể đáp ứng ngày giao hàng với các cơ sở tại Trung Quốc.
Ngày giao hàng (ngày 15/07/2011) không được đáp ứng. Với một lá thư ngày 15/07/2011, nhà môi giới thương mại đã thúc giục bên mua mở một thư tín dụng để đảm bảo cho yêu cầu của bên bán. Chủ tịch của công ty bên bán từ chối giao các sách hướng dẫn từ Trung Quốc qua đường hàng không với một lá thư ngày 18/07/2011. Việc sản xuất tại Ý dựa trên việc thanh toán đơn hàng trước đó và mở thư tín dụng cho bên bán cho đơn hàng hiện tại. Bên mua đã từ chối đề xuất này với một lá thư từ luật sư của mình vào ngày 18/07 và 20/07/2011.
Với thư ngày 18/07/2011, bên mua đã nói với bên bán rằng họ không còn quan tâm đến việc nhận sách hướng dẫn và đơn hàng in đã được chuyển cho một công ty khác. Ngoài ra, bên mua yêu cầu bồi thường cho các chi phí bổ sung. Với thư ngày 19/07/2011, bên mua đã chấm dứt tất cả các mối quan hệ kinh doanh giữa các bên và hủy bỏ tất cả các chào hàng còn lại cho các giao dịch bổ sung. Vào ngày 21/07/2011, bên mua đã chuyển đơn đặt hàng in cho một cửa hàng in ở Đức với giá ròng là 166.000 đồng euro. Đối với việc mở thư tín dụng, bên mua phải chịu thêm chi phí là 1.511,80 đồng euro.
Ngoài ra, bên mua thuê luật sư trước khi xét xử và phí luật sư là 1.760,20 đồng euro, trong đó yêu cầu 880,10 đồng euro và ngoài ra là khoản bồi thường cho chi phí gửi mẫu và nhãn mác lên tới 396,06 đồng euro. Bên bán đã hủy hợp đồng với một thư ngày 14/02/2012 với lý do rằng bên mua không chấp thuận các mẫu in.
Bên mua cho rằng các bên tham gia hợp đồng hợp lệ khi bên bán phản hồi lời chào hàng của người mua đã ký. Bên mua lập luận rằng bên bán có cùng quan điểm khi họ bắt đầu xử lý đơn đặt hàng. Liên quan đến những khó khăn về ngôn ngữ được đề cập bởi bên bán, bên mua lập luận rằng bên bán không tiết lộ những điều đó và sử dụng một nhà môi giới thương mại Đức.
Các vấn đề của giao dịch thuộc rủi ro của bên bán khi chúng phát sinh từ các vấn đề về nguồn cung ở Trung Quốc. Bên bán chỉ yêu cầu thư tín dụng sau khi ký kết hợp đồng. Ban đầu, các bên đồng ý rằng sẽ không có thư tín dụng. Vì bên bán đặt điều kiện cho việc sản xuất kịp thời ở Ý dựa trên yêu cầu vô căn cứ về việc mở thư tín dụng, bên mua không có cách nào khác ngoài việc chuyển đơn đặt hàng in ở nơi khác. Trước khi chuyển cho một công ty khác, bên mua đã xem xét bốn chào hàng từ các công ty O, T, B và C.
3. Phân tích và phán quyết của Tòa án quận của Đức
Bên bán phải trả cho bên mua 109.858,56 đồng euro cùng với tiền lãi có mức lãi suất cao hơn năm điểm phần trăm so với lãi suất cơ bản từ ngày 14/12/2011.
Cụ thể như sau:
Bên mua có yêu cầu bồi thường thiệt hại do không đáp ứng được ngày giao dịch ấn định theo Điều khoản 74, 25, 33, 45, 49 của CISG với số tiền 109.858,56 đồng euro. Các bên đã thỏa thuận về việc giao 124.104 cuốn sách hướng dẫn với giá ròng là 0,475 đồng euro và tổng cộng là 58.949,40 đồng euro. Với chữ ký bên dưới, chào hàng được chấp nhận bởi giám đốc điều hành của bên bán. Bên mua, theo điều 74 CISG, được bồi thường thiệt hại 107.050,60 đồng euro cho chi phí bổ sung bắt nguồn từ giao dịch phòng ngừa rủi ro.
Bên bán không đáp ứng ngày ấn định đã thỏa thuận và vi phạm nghĩa vụ giao hàng theo Điều 3(a) CISG. Vi phạm nghĩa vụ này cho phép bên mua được bồi thường thiệt hại theo Điều 45(1)(b) CISG và các điều 74 - 77. Đây chính là một vi phạm cơ bản về nghĩa vụ theo nghĩa của Điều 49(1)(a) và 25 CISG.
Vi phạm nghĩa vụ theo Điều 25 CISG là cơ bản nếu vi phạm dẫn đến sự bất lợi cho bên kia một cách đáng kể như tước đi những gì anh ta có quyền mong đợi theo hợp đồng. Điều 25 CISG bị loại trừ khi bên bán không thấy trước và một người có nhận thức thông thường trong cùng hoàn cảnh sẽ không lường trước được kết quả như vậy.
Mặc định ngày giao hàng FOB vào ngày 15/07/2011 chỉ cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng nếu ngày giao hàng rõ ràng là rất quan trọng và người mua không hoặc ít quan tâm đến việc giao hàng sau đó. Điều này phải được thể hiện rõ ràng cho bên bán khi ký kết hợp đồng.
Các bên đã thỏa thuận rõ ràng ngày 15 tháng 7 năm 2011 là một ngày giao hàng cố định. Chào hàng, được ký bởi giám đốc điều hành của bên bán có chứa điều khoản “ngày 15/07/2011 ngày giao dịch thương mại ấn định”. Ngay cả khi giám đốc điều hành không biết về Phần 376 của Bộ luật Thương mại Đức, nghĩa của từ “Fixterim (ngày ấn định)” không thể bị nhầm lẫn trong tiếng Đức, đã được chấp nhận bởi bên bán và các điều khoản về ngày cố định là phổ biến trong kinh doanh in ấn quốc tế. Do đó, bên mua có quyền được bồi thường cho các khoản lỗ phát sinh bao gồm cả tổn thất lợi nhuận. Điều 75 CISG quy định rõ ràng rằng điều này bao gồm bồi thường cho các giao dịch phòng ngừa rủi ro. Mặc dù Điều 75 CISG không thể được áp dụng trong trường hợp này vì bên mua không bày tỏ rằng họ muốn chấm dứt hợp đồng vốn là điều kiện tiên quyết của Điều 75 CISG. Không thể suy ra từ bức thư ngày 18/07/2011 tương ứng với quan điểm của bên mua. Tuy nhiên, điều đó không cản trở bên mua yêu cầu các chi phí này trong bối cảnh của Điều 74 CISG do Điều 74 CISG được áp dụng như một điều khoản bồi thường chung hơn bên cạnh Điều 75 CISG.
Những hạn chế của Điều 74 (câu 2) CISG, theo đó các thiệt hại không thể cao hơn dự kiến, không được áp dụng trong trường hợp này. Bên bán nhận thức được rằng đơn hàng đã được “ấn định”, vì có nghĩa vụ giao hàng sau đó đối với Discounter Aldi. Bên bán phải nhận thức được các mức phạt hợp đồng cao của bên mua đối với Aldi trong trường hợp giao hàng trễ, do đó từ quan điểm của bên mua, đảm bảo việc giao hàng là cần thiết, thậm chí với điều kiện cao hơn nhiều các điều kiện đang có hiệu lực. Ngoài ra, bên bán biết rằng việc mua bảo hiểm sẽ gây ra chi phí cao hơn nhiều do khoảng thời gian còn lại ngắn. Các chi phí được tính toán ở đây xấp xỉ gấp đôi so với đơn đặt hàng, là các chi phí mà bên bán có thể thấy trước.
Bên bán không được phép từ chối thực hiện đơn hàng trên cơ sở bên mua từ chối phát hành thư tín dụng. Vấn đề thư tín dụng đã không được thỏa thuận. Không có dấu hiệu nào để có thể giả định rằng có một thỏa thuận ngầm về thư tín dụng. Yêu cầu này đã được đưa ra sau đó cho thấy yêu cầu không được thỏa thuận tại thời điểm thực hiện hợp đồng.
Các vấn đề liên quan đến việc cung cấp giấy không miễn bên bán khỏi trách nhiệm pháp lý theo Điều 79. Theo Điều 79 CISG, bên bán sẽ không chịu trách nhiệm cho việc vi phạm nghĩa vụ giao hàng nếu chứng minh được rằng sự chậm trễ là do các tình huống nằm ngoài sự kiểm soát và do đó tại thời điểm ký kết hợp đồng không thể được mong chờ một cách hợp lý là sẽ được tính đến hoặc tránh được hoặc khắc phục được điều đó hoặc hậu quả của nó. Không chứng minh được rằng bên bán hoặc các nhà thầu phụ không thể dự trữ giấy kịp thời. Thiệt hại được chứng minh bằng hóa đơn của công ty O.
Liên quan đến giao dịch phòng ngừa rủi ro, người mua chịu thêm chi phí cho một thư tín dụng với số tiền là 1.511,80 đồng euro.
Việc vận chuyển các mẫu và nhãn mác từ bên mua đến bên bán dẫn đến chi phí với số tiền là 396,06 đồng euro. Những chi phí này là chi phí mà bên bán có thể thấy trước vì việc vận chuyển mẫu và nhãn mác phù hợp với thỏa thuận của các bên.
Bên mua không vi phạm nghĩa vụ của mình theo Điều 77 CISG để giảm thiểu tổn thất. Đặc biệt vì bên mua không thể được mong chờ là chấp nhận lời chào hàng của bên bán để sản xuất ở châu Âu với các điều kiện mới. Theo Điều 77 CISG, người mua có nghĩa vụ thực hiện tất cả các biện pháp hợp lý để giảm thiểu thiệt hại do vi phạm hợp đồng của bên kia. Nếu bên mua thờ ơ với nghĩa vụ này, người bán có thể đã yêu cầu giảm bồi thường thiệt hại bằng mức đáng lẽ thiệt hại phải được ngăn chặn.
Cũng theo nghĩa vụ của Điều 77 CISG để giảm thiểu tổn thất, bên mua không có lỗi khi trao đơn đặt hàng mới cho công ty O.
Bên mua đã thực hiện một giao dịch phòng ngừa rủi ro hợp lý với một nhà cung cấp với giá là 166.000 đồng euro. Các chi phí của giao dịch phòng ngừa rủi ro này được chứng minh đầy đủ bằng hóa đơn. Khi bên bán cho rằng bên mua tìm kiếm các ưu đãi/chào hàng hoặc so sánh, bên bán không thể chứng minh được rằng bên mua không chọn phương án thay thế thuận lợi và tương đối an toàn.
4. Bình luận chung:
Trong vụ việc tranh chấp mua bán gạch lát tường, Tòa đã vận dụng quy định của Điều 45 làm cơ sở để dẫn chiếu tới các quyền khác tại các điều khoản khác của CISG nhưng đúng tinh thần mà Điều 45 được nêu ra. Ở một khía cạnh khác, có thể nhận thấy Điều 45 sẽ thường được áp dụng cùng với các điều khoản khác do tính chất làm nền và cơ sở và dẫn chiếu tới các điều khoản khác được quy định rõ trong chính điều khoản này. Ở vụ việc trên, ta còn thấy Tòa viện dẫn đến Điều 45 (1) (b) và khẳng định rằng điều khoản này (yêu cầu bồi thường thiệt hại) có thể được áp dụng dù bên mua đã được hưởng một quyền khác (quyền hủy hợp đồng một phần). Điều này hoàn toàn đúng với tinh thần của khoản 2 Điều 45. Tuy nhiên, trên thực tế quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Điều 45 (1) (b) không được tự động áp dụng mà có điều kiện cho việc áp dụng điều khoản này. Một trong những điều kiện đó chính là việc tuân thủ về thời hạn thông báo sự không phù hợp của hàng hóa theo quy định của hợp đồng. Do không thực hiện đúng yêu cầu về thời hạn thông báo sự không phù hợp theo quy định của hợp đồng, bên mua đã mất đi quyền đòi bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 45 (1) (b).
Trong vụ việc hợp đồng cung cấp sách nghệ thuật, Tòa đã giúp ta hiểu hơn về cách áp dụng Điều 45 (1)(b) trên thực tế. Theo đó, Tòa đã phân tích rằng bên mua có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Điều 45 (1)(b) cùng với các điều khoản từ 74-77 CISG, nếu bên bán không thực hiện nghĩa vụ. Tòa cho rằng nghĩa vụ của bên bán là tất cả các nghĩa vụ mà bên bán phải tuân theo theo từng giao dịch hợp pháp cụ thể. Tòa cũng khẳng định rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm đối với việc thực hiện nghĩa vụ của bên bán, và điều này hoàn toàn độc lập với lỗi của bên bán.
Theo hợp đồng trong vụ việc này, bên bán có nghĩa vụ giao hàng. Tòa giải thích thêm về cách hiểu thế nào là nghĩa vụ giao hàng của bên bán. Theo Tòa, nghĩa vụ này chủ yếu là khởi động việc vận chuyển hàng hóa, nghĩa là bên bán phải bàn giao hàng hóa cho nhà vận chuyển đầu tiên để chuyển cho bên mua. Bằng cách này, bên bán đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng của mình. Theo đó, bên mua không thể vận dụng quy định của Điều 45 (1)(b) nếu hàng hóa bị phá hủy hoặc chuyển nhầm địa chỉ trong quá trình vận chuyển hoặc nếu việc bàn giao cho người mua bị trì hoãn. Tòa khẳng định những sai lầm của nhà vận chuyển không nằm trong phạm vi trách nhiệm của bên bán, và câu hỏi liệu hợp đồng có được hoàn thành kịp thời hay không cũng được xác định bởi việc gửi kịp thời chứ không phải bởi thời điểm hàng hóa đến.
Trong vụ việc tranh chấp về sản phẩm in, bên mua đã vận dụng được Điều 45 (1)(b) để đòi bồi thường thiệt hại do bên bán không thực hiện được nghĩa vụ giao hàng vào đúng ngày đã thỏa thuận. Tòa đã phân tích nội dung của các Điều 74, 75 và 77 khi được áp dụng vào các tình tiết của vụ việc tranh chấp. Tòa không phân tích về Điều 45 mà chỉ nêu ra như là căn cứ để bên mua đòi bồi thường thiệt hại và dựa trên việc dẫn chiếu đến các điều khoản từ 74-77 theo quy định tại Điều 45, Tòa đã phân tích các quy định tại các điều khoản này để xác định các khoản bồi thường thiệt hại cụ thể trong vụ tranh chấp. Ở đây, có thể nói Điều 45 như là điều khoản nền tảng, làm căn cứ để bên mua đòi bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bán vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc Công ước. Việc tính toán thiệt hại cụ thể được Điều 45 dẫn chiếu đến các điều khoản sau đó là các điều khoản từ 74-77. Tòa đã vận dụng rất đúng và hợp lý các quy định của Công ước trong trường hợp này.
Ba vụ việc nêu trên là một trong số rất nhiều vụ việc mà các Tòa trong quá trình xét xử đề cập đến Điều 45 của CISG. Có vụ việc Tòa coi Điều 45 là điều khoản quan trọng trong xử lý vụ việc, có vụ việc Tòa dẫn chiếu đến như là điều khoản bổ trợ, củng cố cho các lập luận của Tòa hoặc Tòa xem xét trên cơ sở lập luận của các bên.
Một điểm chung dễ nhận thấy trong các vụ việc nêu trên đó là Điều 45 có mối liên kết với nhiều điều khoản khác. Điều này là dễ hiểu bởi Điều 45 là điều khoản quy định chung về các biện pháp mà bên mua có thể sử dụng để bảo vệ quyền lợi của mình trong trường hợp bên bán không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc Công ước. Do đó, Điều 45 có thể được ví như điều khoản nền tảng để bên mua làm căn cứ yêu cầu Tòa và bên bán đảm bảo quyền lợi và bù đắp các thiệt hại do vi phạm của bên bán. Trên thực tế, điều khoản này cần được áp dụng song hành với các điều khoản khác như các Điều từ 46-52 và 74-77. Hay nói cách khác là các quy định của Điều 45 được hiện thực hóa bởi các điều khoản cụ thể này.
Một điểm chung khác nữa có thể dễ nhận thấy trong các vụ việc nêu trên là tần suất xuất hiện của điều khoản 45(1)(b) về bồi thường thiệt hại. Điều này không phải do sự lựa chọn của người viết bài mà thực tế trong quá trình chọn lọc các vụ việc từ gần 300 vụ việc có liên quan đến điều khoản này, người viết bài nhận thấy nội dung về bồi thường thiệt hại được dẫn chiếu đến nhiều hơn so với các nội dung khác được quy định tại Điều 45. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu và sẽ không chủ quan khi nhận xét rằng quy định về bồi thường thiệt hại là quy định thực chất nhất của Điều 45 khi mà về bản chất Điều 45 cũng là điều khoản mang tính chung và nền tảng và cần được áp dụng cùng lúc với các điều khoản cụ thể khác (các Điều 46-52 và 74-77).
Sở dĩ nói quy định về bồi thường thiệt hại là quy định thực chất nhất của Điều 45 là vì nếu chẻ nhỏ quy định tại Điều 45 thì có thể nhận thấy có đến hai khoản quy định về bồi thường thiệt hại. Cụ thể, khoản 1(b) nêu rõ bên mua có quyền đòi bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bán không thực hiện nghĩa vụ và khoản 2 khẳng định nguyên tắc rằng việc đòi bồi thường thiệt hại có thể được yêu cầu cùng lúc với các biện pháp khác nếu bên mua nhận thấy quyền lợi không được đảm bảo do việc không thực hiện nghĩa vụ của bên bán. Trong khi đó, khoản 1(a) chỉ dẫn chiếu tới các biện pháp được nêu tại các điều khoản khác, chứ không có quy định cụ thể và khoản 3 là quy định về việc cơ quan xét xử không được cho phép bên bán kéo dài thời gian thực hiện khi bên mua sử dụng đến bất kỳ biện pháp bảo hộ pháp lý nào trong trường hợp bên bán vi phạm hợp đồng.
Trong các vụ việc trên, có thể nhận thấy Điều 45(1)(b) không được tự động áp dụng. Việc áp dụng điều khoản này cũng dựa trên việc bên mua phải thực hiện các nghĩa vụ của mình. Trong vụ việc tranh chấp đầu tiên được phân tích trong khuôn khổ bài viết này giữa công ty Đức và công ty Ý về hợp đồng mua bán gạch lát tường, bên mua đã mất quyền đòi bồi thường thiệt hại do không thực hiện việc thông báo về hàng hóa không phù hợp trong khoảng thời gian được quy định trong hợp đồng. Trong vụ việc thứ hai được phân tích giữa công ty Anh và công ty Thụy Sỹ về hợp đồng cung cấp sách nghệ thuật, Tòa đã khẳng định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm đối với việc thực hiện nghĩa vụ của bên bán, và điều này hoàn toàn độc lập với lỗi của bên bán. Trong vụ việc này, Tòa cũng phân tích về nghĩa vụ giao hàng của người bán. Theo đó, nghĩa vụ giao hàng đã hoàn thành hay chưa cần được xác định dựa trên việc liệu hàng hóa đã được gửi kịp thời hay chưa, chứ không phải dựa vào thời điểm hàng hóa đến địa điểm được yêu cầu. Do đó, bên mua không thể vận dụng quy định của Điều 45 (1)(b) nếu hàng hóa bị phá hủy hoặc chuyển nhầm địa chỉ trong quá trình vận chuyển hoặc nếu việc bàn giao từ nhà vận chuyển cho bên mua bị trì hoãn.
Như vậy, theo quy định tại Điều 45, trong trường hợp bên bán không tuân thủ hợp đồng hoặc nghĩa vụ CISG, về nguyên tắc, bên mua có năm biện pháp pháp lý bảo vệ quyền lợi của mình, gồm: (i) quyền yêu cầu người bán phải thực hiện nghĩa vụ (Điều 46 (1); (ii) quyền được yêu cầu người bán loại trừ mọi thiếu sót trong việc thực hiện nghĩa vụ (Điều 48); (iii) quyền hủy hợp đồng vì có vi phạm cơ bản hợp đồng (Điều 49 (1)(a)); (iv) quyền giảm giá hàng (Điều 50 câu 1); và (v) quyền đòi bồi thường thiệt hại (Điều 45 (1)(b) cùng với các điều 74-77). Trong năm biện pháp này, quyền đòi bồi thường thiệt hại được quy định là có thể được áp dụng cùng lúc với các biện pháp khác nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên mua theo quy định tại Điều 45.
Nhiều chuyên gia đã có các phân tích và bình luận về quy định của Điều 45. Trong đó, nhóm chuyên gia của Viện Luật Thương mại quốc tế thuộc Trường Luật của Đại học Pace, Hoa Kỳ (Institute of International Commercial Law of the Pace University School of Law) đã dựa trên các phân tích và bình luận của Ủy ban Liên hiệp quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) về các án lệ liên quan đến điều khoản này và chỉnh sửa các phân tích và bình luận này theo hướng thuận tiện và dễ dàng tiếp cận hơn cho việc nghiên cứu đối với những người có quan tâm và nghiên cứu về CISG mà chúng ta hoàn toàn có thể tham khảo.
Cụ thể, theo nhóm chuyên gia này quy định của Điều 45 cung cấp tổng quan về các biện pháp khắc phục có sẵn cho bên mua khi bên bán đã vi phạm do không thực hiện bất kỳ nghĩa vụ nào của mình theo hợp đồng hoặc Công ước. Tại khoản (1)(a), điều khoản này chỉ đơn thuần đề cập đến các điều khoản khác, cụ thể là các Điều từ 46-52, trong đó quy định các điều kiện theo đó các quyền được quy định bởi các điều khoản đó có thể được thực thi. Mặt khác, Điều 45 (1)(b) tạo thành cơ sở cho quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của bên mua và vì thế có tầm quan trọng thực tiễn rất lớn. Liên quan đến mức độ thiệt hại, cần phải được xét xử theo các điều 74-76. Điều 45 (2) cho phép kết hợp quyền đòi bồi thường thiệt hại với các biện pháp khắc phục khác. Điều 45(3) giới hạn khả năng của tòa án và hội đồng trọng tài trong việc cho phép bên bán kéo dài thời gian thực hiện. Tuy nhiên, theo Điều 47, bên mua có quyền xác định một khoảng thời gian bổ sung cho việc thực hiện.
Điều 45 không liệt kê các biện pháp khắc phục của bên mua một cách triệt để. Công ước quy định các biện pháp khắc phục khác, ví dụ, trong các điều 71-73 hoặc 84 (1). Tuy nhiên, Điều 45 là toàn diện theo nghĩa là điều này ngăn người mua yêu cầu các biện pháp khắc phục vi phạm hợp đồng có sẵn theo luật trong nước hiện hành, vì Công ước loại bỏ việc vận dung luật pháp trong nước khi mà Công ước có đưa ra quy định.
Không thực hiện nghĩa vụ là điều kiện tiên quyết cho các biện pháp khắc phục
Bên mua có thể sử dụng bất kỳ biện pháp khắc phục nào do bên bán đã không thực hiện nghĩa vụ xuất phát từ hợp đồng, từ tập quán thương mại, từ thực tiễn giữa các bên hoặc từ Công ước. Ngay cả khi một nghĩa vụ bổ sung không được đề cập cụ thể trong Công ước - ví dụ, nghĩa vụ gia hạn bảo lãnh ngân hàng có lợi cho bên mua - đã bị vi phạm, thì bên mua được hưởng các biện pháp bảo hộ pháp lý theo Công ước. Mức độ không thể thực hiện của bên bán là không liên quan trong việc xác định liệu bên mua có được quyền hưởng các biện pháp khắc phục hay không. Tất nhiên, một số biện pháp khắc phục chỉ dành cho bên mua khi vi phạm là cơ bản. Nhìn chung, lý do vi phạm của bên bán là không liên quan, ngoại trừ trong phạm vi bên bán có thể yêu cầu miễn trừ theo Điều 79 (5). Cụ thể, Điều 45 (1) không yêu cầu người bán đã hành động do sơ suất, lỗi hoặc cố ý để bên mua yêu cầu các biện pháp khắc phục được đề cập đến tại điều khoản này.
Tuy nhiên, nếu trách nhiệm của bên bán đối với việc khắc phục vi phạm phụ thuộc vào các điều kiện tiếp theo - cụ thể là thông báo kịp thời và đúng đắn của bên mua (như tại các Điều 38, 39, 43) - thì các điều kiện bổ sung phải được thỏa mãn để bên mua có thể bảo đảm quyền của mình đối với các biện pháp khắc phục.
Quyền theo Điều 46-52
Điều 45 (1)(a) chỉ đề cập đến các Điều 46-52. Mặc dù tất cả các biện pháp khắc phục được quy định tại các điều này yêu cầu rằng việc vi phạm nghĩa vụ đã xảy ra, các điều khoản này còn phân biệt các loại vi phạm. Do đó, các Điều 46 (2), 49 (1)(a) và 51 (2) yêu cầu vi phạm cơ bản. Điều 49 (1)(b) chỉ áp dụng trong trường hợp không giao hàng, và không chắc là liệu Điều 50 có áp dụng cho các trường hợp khác ngoài giao hàng không phù hợp hay không. Điều 51 quy định về việc không thực hiện một phần; Điều 52 quy định về giao hàng sớm và giao hàng vượt quá.
Yêu cầu bồi thường thiệt hại
Điều 45 1)(b) đưa ra các điều kiện thực tế để yêu cầu bồi thường thiệt hại của bên mua. Trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ hợp đồng dưới bất kỳ hình thức nào của bên bán, bên mua đã chịu tổn thất do vi phạm đó có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại. Do đó, ví dụ, bên mua có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với các tổn thất do việc giao hàng bị lỗi. Bên mua cũng có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho một tổn thất tiếp theo khi bên bán tuyên bố trước rằng họ sẽ không thể giao hàng đúng hạn, do đó là vi phạm hợp đồng trước thời hạn theo nghĩa của Điều 71. Tuy nhiên, nếu hợp đồng hoặc Công ước áp đặt các điều kiện tiếp theo đối với quyền của bên mua đối với các thiệt hại - chẳng hạn như yêu cầu thông báo theo các Điều 38, 39 và 43 - những điều kiện này cũng phải được thỏa mãn.
Trái ngược với nhiều hệ thống quốc gia, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Công ước không phụ thuộc vào bất kỳ loại lỗi nào, vi phạm lời hứa rõ ràng hoặc tương tự; quyền này chỉ phụ thuộc vào việc không thực hiện một cách khách quan. Chỉ trong các điều kiện được mô tả trong Điều 79 hoặc trong trường hợp theo Điều 80, bên bán mới được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Các Điều 74-77 mà Điều 45 (1)(b) đề cập đến quy định về việc tính toán mức độ thiệt hại, nhưng những điều khoản đó không tạo thành cơ sở cho yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Các quyết định đã áp dụng Điều 45 (1)(b) không cho thấy khó khăn gì trong việc áp dụng điều khoản này. Các vấn đề có thể phát sinh liên quan đến sự tồn tại và mức độ nghĩa vụ của bên bán hoặc mức độ thiệt hại, nhưng vì cả hai khía cạnh đều được giải quyết theo các điều khoản khác (Điều 30-44 và 74-77 tương ứng), Điều 45 (1)( b) chỉ được đề cập trong các trường hợp này nói chung mà không được thảo luận chi tiết.
Cộng dồn các biện pháp khắc phục (45 (2))
Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại là biện pháp khắc phục luôn có sẵn cho bên mua nếu vi phạm hợp đồng đã gây ra cho bên mua bất kỳ thiệt hại nào. Quyền này có thể được viện dẫn cùng với bất kỳ biện pháp khắc phục nào khác để bù đắp cho những tổn thất xảy ra mặc dù có biện pháp khắc phục khác.
Không có gia hạn thời gian (45(3))
Điều 45 (3) giới hạn khả năng của tòa án và hội đồng trọng tài trong việc cho phép kéo dài thời gian thực hiện khi bên mua buộc bên bán chịu trách nhiệm về việc vi phạm hợp đồng. Mặc dù khả năng này có thể được coi là một vấn đề của luật tố tụng và do đó nằm ngoài phạm vi áp dụng của Công ước, tuy nhiên, Điều 45 (3) vẫn loại trừ rõ ràng điều này. Quy định này được áp dụng đối với tòa án và các tòa trọng tài. Các bên tự do gia hạn hoặc sửa đổi thời gian thực hiện bất cứ lúc nào.
Nơi thực hiện
Nơi thực hiện cho tất cả các quyền và yêu cầu theo Điều 45 là nơi thực hiện nghĩa vụ chính - giao, chuyển tài liệu, v.v... mà đã bị vi phạm. Do đó, việc xác định nơi thực hiện nghĩa vụ chính là điều quan trọng.
Nghĩa vụ chứng minh
Do các phần khác của Điều 45 không trao các quyền cụ thể trên cơ sở bên mua có thể khởi kiện, nên câu hỏi về trách nhiệm chứng minh theo quy định chỉ liên quan đến yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Điều 45 (1)(b). Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên mua, bên mua phải chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ của bên bán cũng như những tổn thất do vi phạm đó gây ra. Theo Điều 79, nghĩa vụ thuộc về bên bán phải chứng minh mọi trường hợp miễn trừ.
*Lưu ý: Căn cứ tham khảo dựa trên các Điều 3, 25, 33, 45, 74, 77 và 79 CISG.
“Ðiều 3
1. Ðược coi là hợp đồng mua bán các hợp đồng cung cấp hàng hóa sẽ chế tạo hay sản xuất, nếu bên đặt hàng không có nghĩa vụ cung cấp phần lớn các nguyên liệu cần thiết cho việc chế tạo hay sản xuất hàng hóa đó.
2. Công ước này không áp dụng cho các hợp đồng trong đó nghĩa vụ của bên giao hàng chủ yếu là phải thực hiện một công việc hoặc cung cấp một dịch vụ khác.”
“Ðiều 25
Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự.”
“Ðiều 33
a) Ðúng vào ngày giao hàng mà hợp đồng đã quy định, hay có thể xác định được bằng cách tham chiếu vào hợp đồng.
b) Vào bất kỳ thời điểm nào trong khoảng thời gian được hợp đồng ấn định hay có thể xác định được khoảng thời gian giao hàng bằng cách tham chiếu vào hợp đồng, nếu như không thể căn cứ vào các tình tiết để biết ngày giao hàng mà người mua ấn định là ngày nào.
c) Trong trường hợp khác, trong một thời gian hợp lý sau khi hợp đồng được ký kết.”
“Ðiều 45
1. Nếu người bán đã không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng mua bán hay Công ước này, thì người mua có căn cứ để:
a. Thực hiện những quyền hạn của mình theo quy định tại các điều từ 46 đến 52.
b. Ðòi bồi thường thiệt hại như đã quy định tại các điều từ 74 đến 77.
2. Người mua không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại khi họ sử dụng quyền dùng một biện pháp bảo hộ pháp lý khác.
3. Không một thời hạn trì hoãn nào có thể được Tòa án hay Trọng tài ban cho người bán khi người mua sử dụng đến bất kỳ biện pháp bảo hộ pháp lý nào trong trường hợp người bán vi phạm hợp đồng.”
“Ðiều 74
Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết.”
“Ðiều 75
Khi hợp đồng bị hủy và nếu bằng một cách hợp lý và trong một thời hạn hợp lý sau khi hủy hợp đồng, người mua đã mua hàng thay thế hay người bán đã bán hàng lại hàng thì bên đòi bồi thường thiệt hại có thể đòi nhận phần chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá mua thế hay bán lại hàng cũng như mọi khoản tiền bồi thường thiệt hại khác có thể đòi được chiếu theo Điều 74.”
và
“Ðiều 79
1. Một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc ký kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục các hậu quả của nó.
2. Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực hiện điều đó thì bên ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp:
a. Ðược miễn trách nhiệm chiếu theo quy định của khoản trên, và.
b. Nếu người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu các quy định của khoản trên được áp dụng cho họ.
3. Sự miễn trách được quy định tại điều này chỉ có hiệu lực trong thời kỳ tồn tại trở ngại đó.
4. Bên nào không thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải báo cáo cho bên kia biết về trở ngại và ảnh hưởng của nó đối với khả năng thực hiện nghĩa vụ. Nếu thông báo không tới tay bên kia trong một thời hạn hợp lý từ khi bên không thực hiện nghĩa vụ đã biết hay đáng lẽ phải biết về trở ngại đó thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do việc bên kia không nhận được thông báo.
5. Các sự quy định của điều này không cản trở từng bên được sử dụng mọi quyền khác ngoài quyền được bồi thường thiệt hại chiếu theo Công ước này.”
