Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (xe ô tô đã qua sử dụng) giữa một công ty của Đức với một công ty của Ý xét xử tại Tòa án quận Freiburg, Đức
1. Các bên tranh chấp
Nguyên đơn: Bên mua là một công ty trách nhiệm hữu hạn có trụ sở tại Ý.
Bị đơn: Bên bán là công ty có trụ sở tại Đức.
Cơ quan giải quyết tranh chấp: Tòa án quận Freiburg, Đức.
2. Diễn biến tranh chấp
Bên mua, là một công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập tại Circello, đã đặt mua một xe ô tô đã qua sử dụng từ bên bán tại Emmendingen. Theo lời chào hàng qua internet của bên bán, ngày 3/5/2001, bên mua đã ký kết hợp đồng mua bán một xe ô tô đã qua sử dụng hiệu “VW Golf TDI” với giá 25.000 mác Đức. Ngày 4/5/2001, bên mua đã chuyển 12.782 mác Đức vào tài khoản của bên bán tại ngân hàng Raiffeisenbank Denzlingen. Sau đó, bên mua đã thuê bên vận chuyển Labagnara để vận chuyển chiếc xe và giấy phép. Các giấy tờ đăng ký kèm theo hồ sơ về chủ sở hữu trước của chiếc xe đã được bên bán bàn giao cho bên mua tại văn phòng của bên mua ở Ý.
Bên mua đã chi trả 700.000 lia (đồng tiền Ý) cho bên vận chuyển. Bên mua cũng đã chi tiền để thay thế, tân trang lại và đăng ký chiếc xe theo giấy phép đăng ký mới của Ý (BS 579 SL) do bên mua sở hữu. Tổng số tiền bên mua tiêu tốn khoảng 3.550.000 lia (tương đương khoảng 1.837,07 mác Đức). Ngày 31/5/2001, chiếc xe đã bị cảnh sát quận Benevento - Ý tịch thu, với lý do phương tiện này trước đây đã được đăng ký tại Ý với giấy phép số AY 507 TX, và đã bị đánh cắp. Ngày 12/3/2002, theo quyết định của công tố quận Benevento, chiếc xe bị tịch thu đã được trả về cho công ty bảo hiểm của chủ sở hữu trước đây. Trong bức thư ngày 29/8/2001, bên mua đã thông báo cho bên bán tình hình và yêu cầu bồi thường tiền mua xe và chi phí liên quan (khoảng 3.000 mác Đức) trước ngày 12/9/2001. Bên mua cho rằng hợp đồng mua bán bị vi phạm vì lý do không thể thực hiện được. Theo Điều 306 Bộ luật Dân sự Đức (BGB): bên bán không có quyền chuyển quyền sở hữu chiếc xe cho bên mua như nghĩa vụ bên bán phải thực hiện theo hợp đồng. Theo đó, bên mua tuyên bố hủy hợp đồng, và yêu cầu bồi thường dựa theo Điều 812 Bộ luật Dân sự Đức.
Bên bán đã phản đối cáo buộc rằng chiếc xe bị đánh cắp. Theo bên bán, ngày 3/5/2001, cơ quan của Đức Kraftfahrtbundesamt đã bảo đảm với bên bán rằng chiếc xe không có trong danh sách bị đánh cắp. Ngoài ra, nhà cung cấp M.T. cũng cung cấp hồ sơ về chủ sở hữu trước của chiếc xe và quyền sở hữu đối với tất cả các giấy đăng ký xe trước đó. Bên bán lập luận rằng việc từ chối trách nhiệm theo hợp đồng được áp dụng đối với quyền sở hữu chiếc xe này. Cuối cùng, bên bán viện dẫn Điều 440 Bộ luật Dân sự Đức để chỉ ra rằng, yêu cầu bồi thường thiệt hại chỉ được chấp nhận nếu bên mua trả lại xe cho bên bán, hoặc bên bán, trong trường hợp chiếc xe đã được trả lại cho người chủ hợp pháp, có thể yêu cầu từ người chủ sở hữu quyền lợi bảo hiểm sau này hoặc được giao quyền đối với những lợi ích này.
3. Bình luận và phán quyết của tòa án
3.1. Bình luận của tòa án
Căn cứ theo Điều 1 và Điều 4 Công ước CISG, hợp đồng giữa bên mua và bên bán chịu sự điều chỉnh của Công ước này.
Căn cứ theo Điều 30 Công ước CISG, bên bán đã không hoàn thành nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu chiếc xe cho bên mua. Điều 4(b) không quy định điều kiện chuyển quyền sở hữu hàng hóa, do đó luật Đức và luật Ý sẽ được xem xét áp dụng. Dù áp dụng pháp luật quốc gia nào, bên bán đều chưa hoàn thành nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu: Bộ luật Dân sự Ý không quy định việc mua lại quyền sở hữu với thiện chí. Bộ luật Dân sự Đức mặc dù không quy định việc mua lại quyền sở hữu với thiện chí, nhưng vụ việc là một trong những ngoại lệ được nêu tại Điều 935 I Bộ luật Dân sự Đức: bên mua đã đệ trình các bằng chứng chi tiết (báo cáo cảnh sát về vụ trộm; hồ sơ giấy đăng ký xe BE 356CA, đăng ký dưới tên Fiat Panda, báo cáo của cảnh sát về tịch thu và quyết định của công tố quận) về việc chiếc xe bị đánh cắp từ chủ sở hữu hợp pháp.
Căn cứ theo Điều 41 CISG, bên bán phải chịu trách nhiệm về các khiếm khuyết đối với quyền sở hữu hàng hóa. Việc bên bán từ chối trách nhiệm không phải là một phần của thỏa thuận hợp đồng. Ngay cả khi việc từ chối trách nhiệm được áp dụng, bên bán cũng không phải là bên thực hiện quyền này.
Điều 49 Công ước CISG cho phép bên mua tuyên bố hủy hợp đồng. Bên mua đã thực hiện quyền này ngày 29/8/2001. Việc bên mua hủy hợp đồng dựa trên các quy định của Bộ luật Dân sự Đức là không liên quan. Bên mua hủy hợp đồng trong khoảng thời gian xác định theo quy định tại Điều 49(2)(b)(i) Công ước CISG. Chiếc xe đã bị tịch thu ngày 31/5/2001. Tòa cho rằng khoảng thời gian 3 tháng là đủ để bên mua tiếp cận các thông tin cần thiết và thu thập bằng chứng liên quan đến việc chiếc xe bị tịch thu.
Bên bán không được loại trừ việc thực hiện nghĩa vụ theo Điều 79(1) Công ước CISG. Bên bán đã không hoàn thành nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu tài sản do lỗi từ phía mình. Ở vị trí của mình, bên bán có trách nhiệm xác minh về lịch sử của chiếc xe. Nếu làm đúng việc này, bên bán sẽ phải thấy rằng chiếc xe thực chất đã bị đánh cắp, và do đó phải dừng việc bán chiếc xe. Trong trường hợp này, việc bên bán xác minh nguồn gốc xe tại cơ quan liên quan của Đức (Kraftfahrtbundesamt) là không đủ cơ sở. Báo cáo của Kraftfahrtbundesamt chỉ nêu lên được các vụ việc xảy ra trong khuôn khổ Cộng hòa Liên bang Đức, và cũng chỉ trong khuôn khổ các vụ việc được ghi nhận tại Văn phòng tội phạm liên bang hoặc Kraftfahrtbundesamt. Phản hồi của văn phòng cho bên bán nêu rõ thông tin này không phải là thông tin hồ sơ về quyền sở hữu. Hồ sơ về quyền sở hữu mà bên mua được bên bán lẻ cung cấp là không đủ cơ sở vì không có bất kỳ chữ ký nào, và không phù hợp với giấy tờ đăng ký liên quan đến số hiệu của nhà sản xuất (“VM” thay cho “VW”), số nhận dạng sản phẩm (("SGFM52JO24M4" thay cho "SGFM52OO24M4") và số nhận dạng khung gầm (“1JZ” thay cho “1OZ”).
Việc vi phạm hợp đồng giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ hợp đồng theo Điều 81(1) Công ước CISG. Theo Điều 81(2) Công ước CISG bên mua có quyền được bồi hoàn nguyên giá. Theo Điều 82(1), (2)(a), việc bên mua không thể hoàn trả lại xe không làm mất quyền tuyên bố hủy hợp đồng của bên mua, do việc không trả lại xe không phải do hành động hoặc thiếu sót của bên mua.
Theo Điều 74 Công ước CISG, bên mua có thể yêu cầu thanh toán cho các khoản chi phí liên quan bao gồm chi phí vận chuyển, chi phí tân trang và chi phí đăng ký xe.
Do bên bán không thể yêu cầu hoàn trả lại xe, nên bên bán cũng không thể yêu cầu bên mua trả lại các lợi ích từ việc giao hàng theo Điều 84(2)
*Lưu ý: Căn cứ tham khảo dựa trên các Điều 1, 4, 30, 41, 49, 74, 79, 81 và 84 CISG.
“Ðiều 1
1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau.
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc,
b. Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước thành viên Công ước này.
2. Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không tính đến nếu sự kiện này không xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành hoặc vào thời điểm ký hợp đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao đổi thông tin giữa các bên.
3. Quốc tịch của các bên, tính chất dân sự hay thương mại của các bên hoặc của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước này.”
“Ðiều 4
Công ước này chỉ điều chỉnh việc ký kết hợp đồng mua bán và các quyền và nghĩa vụ của người bán và người mua phát sinh từ hợp đồng đó. Trừ trường hợp có quy định khác được nêu trong Công ước, Công ước không liên quan tới:
a. Tính hiệu lực của hợp đồng, hoặc bất cứ điều khoản nào của hợp đồng, hoặc bất kỳ tập quán nào.
b. Hậu quả mà hợp đồng có thể đối với quyền sở hữu các hàng hóa đã bán.”
“Ðiều 30
Người bán có nghĩa vụ giao hàng, giao chứng từ liên quan đến hàng hoá và chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá theo đúng quy định của hợp đồng và của Công ước này.”
“Ðiều 41
Người bán phải giao những hàng hóa không bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trừ trường hợp người mua đồng ý nhận loại hàng bị ràng buộc vào quyền hạn và yêu sách như vậy. Tuy nhiên, nếu những quyền hạn và yêu sách đó được hình thành trên cơ sở sở hữu công nghiệp hay sở hữu trí tuệ khác thì nghĩa vụ của người bán sẽ được điều chỉnh theo điều 42.”
“Ðiều 49
1. Người mua có thể tuyên bố hủy hợp đồng:
a. Nếu việc người bán không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng hay từ Công ước này cấu thành một vi phạm chủ yếu đến hợp đồng, hoặc:
b. Trong trường hợp không giao hàng: Nếu người bán không giao hàng trong thời gian đã được người mua gia hạn thêm cho họ chiếu theo khoản 1 điều 47 hoặc nếu người bán tuyên bố sẽ không giao hàng trong thời gian được gia hạn này.
2. Tuy nhiên trong trường hợp nếu người bán đã giao hàng thì người mua sẽ mất quyền hủy hợp đồng nếu người mua đã không tuyên bố hủy hợp đồng.
a. Khi người mua giao hàng chậm trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã biết rằng việc giao hàng đã được thực hiện .
b. Ðối với mọi trường hợp vi phạm trừ trường hợp giao hàng chậm trễ, trong một thời hạn hợp lý:
Kể từ lúc người mua đã biết hay đáng lẽ phải biết về sự vi phạm đó.
Sau khi đã hết mọi thời hạn mà người mua đã gia hạn thêm cho người bán chiếu theo khoản 1 điều 47 hoặc sau khi người bán đã tuyên bố rằng, họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn đã được gia hạn thêm đó, hoặc:
Sau khi đã hết mọi thời hạn bổ sung mà người bán đã yêu cầu chiếu theo khoản 2 điều 48 hay sau khi người mua đã tuyên bố là họ không chấp nhận cho người bán thực hiện nghĩa vụ.”
“Ðiều 74
Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết.”
“Ðiều 79
1. Một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc ký kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục các hậu quả của nó.
2. Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực hiện điều đó thì bên ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp:
a. Ðược miễn trách nhiệm chiếu theo quy định của khoản trên, và.
b. Nếu người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu các quy định của khoản trên được áp dụng cho họ.
3. Sự miễn trách được quy định tại điều này chỉ có hiệu lực trong thời kỳ tồn tại trở ngại đó.
4. Bên nào không thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải báo cáo cho bên kia biết về trở ngại và ảnh hưởng của nó đối với khả năng thực hiện nghĩa vụ. Nếu thông báo không tới tay bên kia trong một thời hạn hợp lý từ khi bên không thực hiện nghĩa vụ đã biết hay đáng lẽ phải biết về trở ngại đó thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do việc bên kia không nhận được thông báo.
5. Các sự quy định của điều này không cản trở từng bên được sử dụng mọi quyền khác ngoài quyền được bồi thường thiệt hại chiếu theo Công ước này.”
“Ðiều 81
1. Việc hủy hợp đồng giải phóng hai bên khỏi những nghĩa vụ của họ, trừ những khoản bồi thường thiệt hại có thể có. Việc hủy hợp đồng không có hiệu lực đối với quy định của hợp đồng liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp hay đến các quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong trường hợp hợp đồng bị hủy.
2. Bên nào đã thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng có thể đòi bên kia hoàn lại những gì họ đã cung cấp hay đã thanh toán khi thực hiện hợp đồng. Nếu cả hai bên đều bị buộc phải thực hiện việc hoàn lại, thì họ phải làm việc này cùng một lúc.”
và
“Ðiều 84
1. Nếu người bán bị buộc phải hoàn lại giá tiền, họ cũng phải trả tiền lãi trên tổng số của giá tiền đó kể từ ngày người mua thanh toán.
2. Người mua phải trả cho người bán số tiền tương đương với mọi lợi nhuận mà họ đã được hưởng từ hàng hóa hay một phần hàng hóa:
a. Khi họ phải hoàn lại toàn thể hay một phần hàng hóa, hoặc.
b. Khi họ không thể hoàn lại toàn thể hay một phần hàng hóa không thể hoàn lại hàng trong tình trạng về thực chất giống như tình trạng họ đã nhận và mặc dầu vậy họ đã tuyên bố hợp đồng bị hủy hay đã đòi người bán phải giao hàng thay thế.”