Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (đậu ngựa) giữa một công ty của Pháp với Công ty xuất nhập khẩu Jiangsu của Trung Quốc xét xử tại Ủy ban Trọng tài Kinh tế và Thương mại quốc tế Thượng Hải, Trung Quốc

 Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (đậu ngựa) giữa một công ty của Pháp với Công ty xuất nhập khẩu Jiangsu của Trung Quốc xét xử tại Ủy ban Trọng tài Kinh tế và Thương mại quốc tế Thượng Hải, Trung Quốc

1. Các bên tranh chấp

Nguyên đơn: Bên mua (Công ty thương mại của Pháp).

Bị đơn: Bên bán (Công ty xuất nhập khẩu Jiangsu).

Cơ quan giải quyết tranh chấp: Ủy ban Trọng tài Kinh tế và Thương mại quốc tế Thượng Hải, Trung Quốc.

2. Diễn biến tranh chấp

Bên mua Pháp và bên bán Trung Quốc ký kết một hợp đồng mua bán đậu ngựa với điều khoản giá FOB Thiên Tân. Theo hợp đồng, bên mua thỏa thuận sẽ mua 2.000 tấn đậu ngựa (với số lượng chính xác được xác định bởi bên bán). Hợp đồng nêu rõ Văn phòng Kiểm tra hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc sẽ kiểm tra hàng hóa trước khi được giao tới Ai Cập. Bên mua đã thông báo cho bên bán rằng mình đã ký hợp đồng bán lại lô hàng đậu ngựa đó cho quân đội Ai Cập. Để đơn giản hóa thủ tục giao hàng, bên mua đã đề xuất đưa thủ tục kiểm tra hàng bởi thanh tra viên Ai Cập tại Thiên Tân thành một phần của thỏa thuận giữa hai bên nhưng bất thành. Tuy nhiên, bên bán cho phép thanh tra viên Ai Cập đến kiểm tra lô hàng đầu tiên (khoảng 2/3 lô hàng) ở kho chứa tại Thiên Tân. Hầu hết lô hàng đã qua được đợt kiểm tra (987.9/1.227 tấn đã qua đợt kiểm tra), nhưng do thanh tra viên Ai Cập đã vi phạm quy định của kho chứa hàng nên bên bán đã từ chối cung cấp chỗ hàng còn lại (khoảng 800 tấn) cho thanh tra viên Ai Cập. Tuy nhiên, bên bán lại thông báo rằng lô hàng đã được chuẩn bị xong. Bên mua đã từ chối nhận hàng do chưa được phía Ai Cập kiểm tra, đồng thời khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại tại Ủy ban Trọng tài Kinh tế và Thương mại quốc tế Thượng Hải, Trung Quốc, với lý do bên bán đã vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng khi không cho thanh tra viên Ai Cập kiểm tra toàn bộ lô hàng.

Cáo buộc của bên mua

Bên mua cho rằng lý do chính khiến cho hợp đồng không thể thực hiện được là do bên bán đã thất bại trong việc chuẩn bị hàng hóa, và bên bán phải chịu toàn bộ trách nhiệm vì sự thất bại này. Bên mua cũng cáo buộc bên bán đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, vi phạm thông lệ thương mại quốc tế và gây ra thiệt hại kinh tế nghiêm trọng cho bên mua. Bên mua yêu cầu bên bán phải bồi thường mọi tổn thất kinh tế cho bên mua. Các khoản thiệt hại mà bên mua yêu cầu bồi thường thiệt hại là 237.604,46 USD, bao gồm:

- Do hợp đồng không thực hiện được, bên mua đã phải chịu chi phí mua hàng thay thế: 138.600 USD.

- Chi phí cấp và sửa L/C: 130,46 USD.

- Chi phí gửi thanh tra viên từ Ai Cập: 40.200 USD.

- Chi phí phạt hợp đồng của quân đội Ai Cập do giao hàng trễ: 58.674 USD.

Ngoài ra, bên mua cũng yêu cầu bên bán phải chịu mọi chi phí trọng tài.

Phản biện của bên bán

Trong bản biện hộ của mình, bên bán lập luận rằng mình đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thông báo về số lượng hàng, và đã chuẩn bị đầy đủ số hàng như đã thông báo. Bên bán cũng nhắc lại điều khoản về kiểm tra hàng, theo đó Văn phòng Kiểm tra hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu Trung Quốc mới là cơ quan có thẩm quyền xác nhận chất lượng và số lượng hàng hóa, chứ không phải là cơ quan kiểm tra của phía Ai Cập. Việc bên bán hợp tác với cơ quan kiểm tra Ai Cập là thể hiện sự hợp tác với bên mua, chứ không phải nghĩa vụ của bên bán. Theo hợp đồng và thông lệ thương mại quốc tế, dựa trên điều khoản FOB, bên mua có nghĩa vụ thuê, lưu kho và gửi tàu đến nhận hàng và có nghĩa vụ thông báo thông tin tàu cho bên bán. Tuy nhiên, đến hết ngày giao hàng, bên bán đã không nhận được bất kỳ thông báo nào từ bên mua. Kể cả khi không nhận được thông báo này từ bên mua, bên bán vẫn thông tin cho bên mua việc hàng hóa đã được chuẩn bị, nhưng bên mua từ chối thực hiện nghĩa vụ đặt tàu và nhận hàng của mình, lấy lý do bên bán không chuẩn bị hàng và hàng chưa được kiểm tra bởi thanh tra Ai Cập để tạm hoãn ngày giao hàng theo L/C. Bên mua đã vi phạm hợp đồng và thông lệ thương mại quốc tế, cấu thành vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng và gây thiệt hại kinh tế cho bên bán. Trên cơ sở đó, bên bán yêu cầu tòa trọng tài phán quyết bên mua:

- Bác bỏ toàn bộ các khiếu kiện của bên mua;

- Thanh toán cho bên bán các chi phí luật sư và các chi phí khác: 15.000 USD.

- Thanh toán toàn bộ chi phí trọng tài.

3. Phân tích và Phán quyết của tòa trọng tài

3.1. Phân tích của tòa trọng tài

Tòa trọng tài đã xem xét các tài liệu, bằng chứng liên quan và đưa ra kết luận như sau:

Ngày 16/02/1995, bên mua (Công ty thương mại của Pháp) đã ký hợp đồng số (95) JUA002 và gửi fax cho bên bán (Công ty xuất nhập khẩu Jiangsu). Trong quá trình giao dịch, các bên đã nhất trí rằng hợp đồng đã được thành lập và ràng buộc đối với cả hai bên. Các bên không chỉ ra cụ thể luật áp dụng kể cả trước khi ký hợp đồng hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Do cả hai quốc gia đều là thành viên của Công ước CISG, tòa trọng tài đã xét xử vụ việc dựa trên quy định của Công ước CISG, có xem xét đến thông lệ thương mại quốc tế.

Nội dung chính của tranh chấp

Nội dung chính của tranh chấp là xác định bên nào đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, khiến cho hợp đồng không thể thực hiện được. Tòa trọng tài nhận thấy rằng bên bán đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng của mình, còn bên mua lại không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của mình là đặt tàu, dẫn tới kết quả là hợp đồng không thực hiện được.

Giao hàng

Theo lời khai của các bên, sau khi thay đổi L/C, số lượng hàng cần giao là 2.000 tấn và ngày giao hàng là 21/3/1995. Bên bán đã giao 1.227,8 tấn hàng đến kho hàng Thiên Tân vào cuối tháng 2, và giao nốt lô hàng 800 tấn trước 31/3/1995. Ban đầu, bên bán đã thông tin cho bên mua rằng lô hàng 800 tấn sẽ được giao vào ngày 22/3, và sau đó thông báo cho bên mua, thông qua ông W của công ty A, rằng 2.000 tấn hàng đã được chuẩn bị để vận chuyển. Cáo buộc của bên mua rằng bên bán đã không đưa ra thông báo trực tiếp cho bên mua, khiến cho bên mua nghĩ rằng bên bán không sẵn sàng giao nốt chỗ hàng, là không có cơ sở, do đó không được chấp nhận.

Kiểm tra hàng hóa

Liên quan đến việc kiểm tra hàng hóa, tòa trọng tài thấy rằng Điều 6 hợp đồng đã chỉ rõ Văn phòng Kiểm tra hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc sẽ xác nhận số lượng và chất lượng hàng hóa và đây sẽ là cơ sở cho việc kiểm tra hàng hóa. Phần ghi chú của hợp đồng cũng chỉ ra rằng tổng giá trị lô hàng bao gồm cả chi phí kiểm tra tại chỗ (là 50.000 Nhân dân tệ nếu số lượng là 2.000 tấn, và 70.000 Nhân dân tệ nếu số lượng là 3.000 tấn), sẽ được thanh toán sau khi toàn bộ lô hàng được giao cho bên mua. Tuy nhiên, vấn đề hàng hóa được kiểm tra bởi thanh tra Ai Cập là không rõ ràng. Tòa trọng tài chỉ ra rằng, trong quá trình đàm phán, bên mua đã yêu cầu bổ sung nội dung cấp chứng nhận kiểm tra bởi thanh tra Ai Cập như một phần của các chứng từ liên quan, nhưng đã bị bên bán từ chối. Bên bán nhấn mạnh rằng việc kiểm tra sẽ phải được thực hiện bởi Văn phòng Kiểm tra hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc. Nội dung này đã được bên mua chấp nhận và các nội dung liên quan đến thanh tra Ai Cập đã được xóa khỏi L/C.

Bên mua đã thông tin cho bên bán rằng hàng hóa được bán cho Quân đội Ai Cập, và theo luật Ai Cập, hàng hóa khi nhập khẩu phải có chứng nhận kiểm tra. Việc mua bán này được thực hiện thông qua bên trung gian, do đó cáo buộc của bên mua rằng bên bán phải biết và chấp nhận hàng hóa phải được kiểm tra bởi thanh tra Ai Cập trước khi vận chuyển là thiếu cơ sở. Ngoài ra, điều khoản vận chuyển trong hợp đồng cũng không chỉ ra rằng hàng hóa phải được kiểm tra bởi thanh tra Ai Cập trước khi vận chuyển. Việc thanh tra Ai Cập đã kiểm tra 1.227,8 tấn hàng theo hợp đồng không dồng nghĩa với việc bên bán chấp thuận việc kiểm tra đó là nghĩa vụ của mình, mà chỉ được xem là hành động hợp tác của bên bán. Thanh tra Ai Cập đã vi phạm các quy định của kho chứa, do đó bị từ chối và bị phạt bởi quản lý kho chứa. Việc bên bán từ chối cho thanh tra Ai Cập kiểm tra hàng không vi phạm hợp đồng.

Vai trò của ông W của công ty A

Việc kiểm tra hàng liên quan đến vai trò và ảnh hưởng của ông W của công ty A. Bên mua cáo buộc rằng ông W là đại diện của bên bán, người đã đồng ý cho thanh tra Ai Cập kiểm tra hàng, cho thấy bên bán đã đồng ý rằng hàng phải được kiểm tra bởi thanh tra Ai Cập. Từ các tài liệu ông W cung cấp cho Ủy ban trọng tài Thượng Hải và bức thư ông W đệ trình lên Đại sứ quán Trung Quốc tại Pháp, có thể thấy ông W là người trung gian đàm phán và thực hiện hợp đồng. Ông W khẳng định rằng các thư ông gửi chỉ để giúp các bên ký kết hợp đồng dựa trên hiểu biết về nhu cầu của một bên và cố gắng thuyết phục bên kia chấp nhận nhu cầu đó, trừ khi các thư ông gửi nêu rõ rằng ông được ủy thác bởi một bên để thực hiện mọi lời cam kết. Do vậy, tòa trọng tài chỉ ra rằng, cáo buộc của bên mua về việc ông W đã chấp nhận thủ tục kiểm tra hàng bởi thanh tra Ai Cập thể hiện rằng bên bán cũng chấp nhận yêu cầu này, là không chính xác.

Nghĩa vụ của các bên

Điều khoản giá của hợp đồng là giá FOB Thiên Tân. Theo Incoterms 1990, bên mua phải đưa ra thông báo cho bên bán về tên tàu, địa điểm bốc xếp hàng và thời gian bốc xếp hàng. Bên mua và bên bán đã thống nhất rằng thời gian vận chuyển hàng sẽ trong tháng 3/1995, do đó, bên mua phải đặt và gửi tàu tới Thiên Tân, đặc biệt sau khi ông W gửi thông báo cho bên mua ngày 23/3/1995, nêu rõ rằng hàng đã được chuẩn bị, và bên bán đã khẳng định thực tế đó.

Bên mua không có lý do gì để nghi ngờ việc bên bán đã chuẩn bị đầy đủ số lượng hàng, cũng như không có cơ sở yêu cầu chỉ đặt tàu sau khi hàng đã được kiểm tra bởi thanh tra Ai Cập. Ngay cả khi đã đặt tàu sau đó, việc bên mua không chấp nhận việc giao hàng ngày 31/3/1995 cấu thành vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng về nhận hàng của bên mua. Do bên mua không thực hiện nghĩa vụ nhận hàng, bên bán có quyền yêu cầu bồi thường đối với hợp đồng mua bán này.

Căn cứ theo các Điều 30 Công ước CISG (“bên bán có nghĩa vụ giao hàng theo quy định của hợp đồng và Công ước này”), Điều 60 Công ước CISG (bên mua phải thực hiện “mọi hành động theo cách hợp lý và theo kỳ vọng của mình để sẵn sàng nhận hàng từ bên bán”) và diễn giải về FOB trong Incoterm 1990, tòa trọng tài chỉ ra rằng bên bán đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng, tuy nhiên, bên mua đã không thực hiện nghĩa vụ đặt tàu, khiến cho hợp đồng không thực hiện được. Bên mua đã không cung cấp đưa ra được bằng chứng cho khiếu kiện của mình, do đó, tất cả khiếu kiện của bên mua đều bị bác bỏ. 

Yêu cầu của bên bán về chi phí luật sư và các chi phí khác (15.000 USD): Do bên bán không đưa yêu cầu phản tố nên theo Quy tắc trọng tài, tòa trọng tài đã không xem xét yêu cầu này.

Dựa trên việc thực hiện hợp đồng giữa bên mua và bên bán và thực tế rằng bên mua đã đề nghị áp dụng thủ tục trọng tài, bên mua sẽ phải chịu toàn bộ chi phí trọng tài.

3.2. Phán quyết cuối cùng của tòa trọng tài

Tòa trọng tài ra phán quyết bác bỏ các khiếu kiện sau đây của bên mua:

- Yêu cầu bồi thường do chênh lệch giá: 138.600 USD.

- Yêu cầu chi phí cấp và đổi L/C: 130,46 USD.

- Yêu cầu thanh toán công tác phí cho thanh tra Ai Cập: 40.200 USD.

- Yêu cầu thanh toán tiền phạt của Quân đội Ai Cập; và

- Bên mua phải chịu mọi chi phí trọng tài (đã được bên mua thanh toán từ trước).

Phán quyết này là chung thẩm.

*Lưu ý: Căn cứ tham khảo dựa trên các Điều 30 và 60 CISG.

“Điều 30

Bên bán có nghĩa vụ giao hàng, bàn giao chứng từ liên quan đến hàng hóa và chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua theo yêu cầu của hợp đồng và Công ước này”.

Ðiều 60

Nghĩa vụ nhận hàng của người mua gồm:

a. Thực hiện mọi hành vi mà người ta có quyền chờ đợi ở họ một cách hợp lý để cho phép người bán thực hiện việc giao hàng và.

b. Tiếp nhận hàng hóa.”

  

Bài viết liên quan

Góp ý