Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (dầu cọ) giữa một công ty của Trung Quốc với một công ty của Singapore xét xử tại Ủy ban Trọng tài thương mại và kinh tế quốc tế Trung Quốc
1. Các bên tranh chấp
Nguyên đơn: Bên mua (Trung Quốc).
Bị đơn: Bên bán (Singapore).
Cơ quan giải quyết tranh chấp: Ủy ban Trọng tài thương mại và kinh tế quốc tế Trung Quốc.
2. Diễn biến tranh chấp
Ngày 01 tháng 7 năm 1994, bên mua (Trung Quốc) và bên bán (Singapore) đã ký kết hợp đồng mua bán 3.000 tấn dầu cọ tinh chế thương hiệu Haihuang, với đơn giá là 610 đô la Mỹ và tổng giá trị hợp đồng là 1.830.000 đô la Mỹ. Các lô hàng sẽ được giao trước ngày 30 tháng 7.
Ngày 04 tháng 7, bên mua đã cấp thư tín dụng (L/C) không hủy ngang cho bên bán thông qua Ngân hàng Chi nhánh Trung Quốc Tế Nam (tỉnh Sơn Đông).
Ngày 16 tháng 8, bên bán đã gửi fax cho bên mua nói rằng giá dầu cọ đã tăng đáng kể và thể hiện mong muốn thương lượng. Sau đó, cả hai bên đã đạt được thỏa thuận, quy định:
(i) Bên mua đồng ý thay đổi L/C để (a) hàng hóa có thể được giao riêng; (b) thời hạn giao hàng có thể được thay đổi thành ngày 31 tháng 8 năm 1994; (c) L/C có hiệu lực đến ngày 20 tháng 9 năm 1994.
(ii) Bên bán phải giao 1.000 tấn hàng trước ngày 10 tháng 8 năm 1994 và hàng hóa còn lại sẽ được giao trước cuối tháng 8.
Bên mua đã thay đổi L/C theo thỏa thuận sửa đổi này.
Ngày 18 tháng 8, bên mua đã gửi fax để giục bên bán giao hàng, trong đó nêu rằng đã quá thời hạn giao hàng 1.000 tấn và hỏi về kế hoạch của bên bán cho 2.000 tấn hàng còn lại. Cùng ngày, bên bán trả lời rằng giá dầu cọ đã vượt quá 720 đô la Mỹ và do đó, bên bán sẽ không giao hàng.
Ngày 30 tháng 8, bên mua đã gửi thư yêu cầu bồi thường, bao gồm chi tiết số tiền bồi thường. Ngày 05 tháng 10, bên mua đã yêu cầu bồi thường một lần nữa với số tiền nói trên, nhưng bên bán không bao giờ trả lời.
Bên mua đã gửi yêu cầu bồi thường thiệt hại cho Tòa trọng tài trên cơ sở một điều khoản phạt trong hợp đồng vì giao hàng trễ, cho những tổn thất liên quan đến việc phát hành và thay đổi L/C. Đồng thời bên mua yêu cầu hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Điều 74 CISG, dựa trên sự khác biệt giữa giá hợp đồng và giá bán lại trên thị trường. Cụ thể, bên mua đã yêu cầu bên bán bồi thường:
- Khoản phạt theo Điều 6 - Điều khoản phạt trong hợp đồng mua bán, quy định rằng "Nếu bên bán không thể giao hàng đúng thời hạn, họ sẽ phải trả 5% tổng giá trị (1.830.000 đô laMỹ ) của hợp đồng, là 91.500 đô Mỹ”.
- Thiệt hại của việc phát hành và thay đổi L/C: 24.280,06 Nhân dân tệ tương đương với 2.856,48 đô la Mỹ do vi phạm hợp đồng của bên bán.
- Phí luật sư của bên mua và phí trọng tài: 38.500 Nhân dân tệ, tương đương 4.643,76 đô la Mỹ (tỷ giá hối đoái: 8,29: 1).
Yêu cầu bồi thường của bên mua đối với tổng số tiền bồi thường là 99.000,24 đô la Mỹ.
Trong phiên tòa, bên mua tuyên bố rằng hợp đồng đã bị hủy bỏ và sẽ không thực hiện hợp đồng nữa. Sau phiên tòa, bên mua đã nộp đơn bổ sung yêu cầu cho trọng tài, trong đó nêu rõ yêu cầu bổ sung sau:
- Theo Điều 18 của Luật Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Hợp đồng kinh tế có yếu tố nước ngoài, bên thực hiện nghĩa vụ của mình có quyền yêu cầu bồi thường.
- Theo Điều 18 của Luật Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Hợp đồng kinh tế có yếu tố nước ngoài, bên thực hiện hợp đồng có quyền yêu cầu khắc phục hợp đồng và theo Điều 6 (b) của điều khoản phạt của Hợp đồng mua bán, hợp đồng vẫn còn hiệu lực, nhưng bên bán phải trả 5% tổng giá (1.830.000 đô la Mỹ), là 91.500 đô la Mỹ. Ngoài ra, bên bán sẽ giao hàng với cùng giá theo hợp đồng ban đầu trong vòng hai tháng.
3. Phân tích và Phán quyết của Trọng tài
Hợp đồng tranh chấp là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo định nghĩa của CISG, các bên ký kết hợp đồng là các công ty có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia là các nước đã ký kết Công ước CISG, do đó luật áp dụng ở đây là Công ước CISG.
Theo hợp đồng, bên bán có nghĩa vụ bán 3.000 tấn dầu cọ tinh chế cho bên mua (bao gồm việc vận chuyển hàng đến cho bên mua với chất lượng và trong thời hạn hợp đồng đã quy định - việc vận chuyển và thời gian giao hàng đã được các bên thỏa thuận chỉnh sửa); bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán số tiền là 1.830.000 đô la Mỹ.
Về phía người mua, người mua đã thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng là thanh toán cho bên bán bằng cách phát hành L/C không hủy ngang cho bên bán. Bên mua đã phải chịu phí phát hành L/C.
Về phía người bán, bên bán đã có hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng theo Điều 25 CISG. Theo đó, hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng của bên bán thể hiện qua các yếu tố cấu thành sau:
(a) Bên bán đã vi phạm hợp đồng thể hiện qua việc bên bán đã không thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng là giao 3000 tấn dầu cọ tinh chế thành các đợt theo thời gian thỏa thuận đã sửa đổi. Cụ thể, theo hợp đồng trong trường hợp này, bên bán phải giao 3.000 tấn hàng hóa trước cuối tháng 7 năm 1994 với đơn giá là 610 đô la Mỹ, tổng cộng là 1.830.000 đô la Mỹ. Tuy nhiên, bên bán đã yêu cầu thay đổi L/C để hoãn việc giao hàng bằng lý do dầu cọ có vấn đề về chất lượng và giá của hàng hóa đã tăng lên. Sau khi bên mua đồng ý, các bên đã thay đổi L/C và ký một thỏa thuận trong đó xác định rằng 1.000 tấn hàng hóa đầu tiên sẽ được giao vào ngày 10 tháng 8 năm 1994 và 2.000 tấn còn lại sẽ được giao trước cuối tháng 8. Tuy nhiên, bên bán đã không giao bất kỳ hàng hóa nào, điều này đã được Hội đồng trọng tài phán quyết là cấu thành vi phạm cơ bản của hợp đồng theo Điều 25 CISG.
Ở đây, hành vi không thực hiện nghĩa vụ của bên bán được coi là sự vi phạm hợp đồng.
(b) Việc vi phạm này của bên bán (bên vi phạm) khiến cho bên mua (bên bị vi phạm) mất đi đáng kể lợi ích mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng.
Điều 25 CISG quy định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm với thiệt hại của bên bị vi phạm. Trong đó, thiệt hại theo Điều 25 CISG là thiệt hại đáng kể mà bên bị vi phạm có quyền chờ đợi từ hợp đồng, nghĩa là thiệt hại được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm những khoản lợi ích mà bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng được hưởng nếu hợp đồng được thực hiện. CISG không giải thích rõ thiệt hại đáng kể là gì. Vì vậy, việc xác định mức độ thiệt hại là đáng kể hay không đáng kể sẽ do tòa án (hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp) quyết định căn cứ vào từng trường hợp, từng vụ tranh chấp cụ thể.
Cụ thể, ở đây là Tòa trọng tài đã xác định có thiệt hại của người mua là việc mất đi lợi nhuận từ chênh lệch giá giữa giá theo hợp đồng (bao gồm thuế là 6.540 RMB/ tấn) và giá bán lại trên thị trường là là 6.800 RMB / tấn (nếu hàng hóa được giao đúng thời hạn). Khoản chênh lệch này là 260 RMB/tấn, và tổng cộng thiệt hại này là 780.000 RMB. (94.000 đô la Mỹ). Trong đó, nguyên nhân dẫn đến việc mất đi khoản lợi đáng lẽ được hưởng này của bên mua (bên bị vi phạm) xuất phát từ việc không thực hiện nghĩa vụ giao hàng (hành vi vi phạm hợp đồng) của bên bán (bên vi phạm).
Do đó, Tòa trọng tài đã chấp nhận yêu cầu bồi thường của bên mua đối với khoản thiệt hại này theo Điều 45 CISG và Điều 74 CISG. Toà Trọng tài cho rằng bên bán đã vi phạm cơ bản hợp đồng và bên mua cũng yêu cầu hủy bỏ hợp đồng; do đó, bên mua được quyền bồi thường thiệt hại bằng cách nhận khoản chênh lệch giá nêu trên.
Đối với các yêu cầu bồi thường thiệt hại khác của bên mua:
- Yêu cầu bồi thường của bên mua dựa trên điều khoản phạt trong hợp đồng và yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng của bên bán sẽ không được chấp nhận. Hội đồng trọng tài đã từ chối yêu cầu bồi thường của người mua đối với khoản bồi thường theo điều khoản phạt hợp đồng và yêu cầu thực hiện hợp đồng, vì Hội đồng trọng tài cho rằng hợp đồng đã bị hủy bỏ theo Điều 49 (1) (a) CISG.
- Bên mua cũng yêu cầu bồi thường chi phí phát hành và thay đổi L/C là 24.280,06 RMB. Hội đồng Trọng tài nhận định rằng chi phí phát hành hoặc thay đổi L/C là chi phí kinh doanh thông thường của doanh nghiệp và nếu bên mua được hưởng chênh lệch giá, thì không nên xem xét yêu cầu này của bên mua.
- Theo Quy tắc Trọng tài của Trung Quốc, Trọng tài chấp nhận yêu cầu bồi thường của bên mua đối với phí luật sư.
(c) Tính có thể của khả năng tiên liệu của bên bán đối với thiệt hại sẽ xảy ra đối với bên mua khi có hành vi vi phạm hợp đồng
Điều 25 CISG quy định trường hợp ngoại lệ mà một vi phạm hợp đồng không bị coi là vi phạm cơ bản hợp đồng, đó là bên vi phạm hợp đồng“không thể nhìn thấy trước hậu quả của hành vi vi phạm đó và người bình thường ở vào hoàn cảnh tương tự cũng không thể tiên liệu được”.
Cụ thể, khi thực hiện hành vi không giao hàng hóa, bên bán chắc chắn đã ý thức được bên mua sẽ không được hưởng khoản chênh lệch giá trong hợp đồng với giá trên thị trường vì bản thân bên bán là bên đã đề cập đến sự kiện giá dầu cọ tăng sau khi hai bên ký kết hợp đồng. Hơn nữa, sau khi sự kiện giá dầu cọ tăng xảy ra, các bên đã đàm phán lại và trong thỏa thuận sau đàm phán lại, bên bán đã không phản đối việc giao hàng cũng như các thời hạn giao hàng cuối tháng 8, nhưng đến thời điểm cuối tháng 8 bên bán vẫn không giao hàng.
Rõ ràng là bên bán đã thực hiện hành vi vi phạm một cách cố ý và khi thực hiện hành vi vi phạm hợp đồng này, bên bán đã biết được thiệt hại bên mua đối với việc hưởng chênh lệch giá. Ngoài ra, việc giá dầu tăng hay giảm trên thị trường cần được hiểu là thực tế kinh doanh thông thường (sự thay đổi giá cả thị trường của hàng hóa), là loại rủi ro thị trường mà các bên tham gia giao dịch luôn ý thức được và có sự tính toán khi giao dịch.
Tuy nhiên, nội dung này không được Tòa trọng tài phân tích hay đề cập, các bên cũng không có khiếu nại liên quan nào đối với Tòa trọng tài.
Tòa trọng tài đã phán quyết vụ việc như sau:
(i) Hợp đồng trong trường hợp này đã được hủy bỏ.
(ii) Bên bán sẽ thanh toán khoản thiệt hại 94.000 đô la Mỹ của bên mua và phí luật sư là 13.000 000 Nhân dân tệ.
(iii) Khiếu nại khác của bên mua bị bác bỏ.
(iv) Bên bán sẽ chịu toàn bộ phí trọng tài.
Bên bán sẽ trả cho bên mua tổng cộng 94.000 đô la Mỹ và 38.500 Nhân dân tệ trong vòng 45 ngày sau khi phán quyết này có hiệu lực. Mặt khác, 7% tiền lãi hàng năm cho khoản thanh toán bằng đô la Mỹ và 11% tiền lãi hàng năm cho khoản thanh toán bằng Nhân dân tệ sẽ được thêm vào. Phán quyết này là chung thẩm.
*Lưu ý: Căn cứ tham khảo dựa trên các Điều 25, 45 và 74 CISG.
“Ðiều 25
Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự.”
“Ðiều 45
1. Nếu người bán đã không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng mua bán hay Công ước này, thì người mua có căn cứ để:
a. Thực hiện những quyền hạn của mình theo quy định tại các điều từ 46 đến 52.
b. Ðòi bồi thường thiệt hại như đã quy định tại các điều từ 74 đến 77.
2. Người mua không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại khi họ sử dụng quyền dùng một biện pháp bảo hộ pháp lý khác.
3. Không một thời hạn trì hoãn nào có thể được Tòa án hay Trọng tài ban cho người bán khi người mua sử dụng đến bất kỳ biện pháp bảo hộ pháp lý nào trong trường hợp người bán vi phạm hợp đồng.”
và
“Ðiều 74
Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết.”