MỤC LỤC
1. Bản án dân sự phúc thẩm số 162/2025/DS-PT ngày 19/3/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc tranh chấp hợp đồng ủy quyền, yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i) Ngày 13/10/2023, ông Lục Gia C và bà Phan Thị H có đơn yêu cầu độc lập tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/5/2023 giữa ông Lâm Văn K với ông Lục Gia C. Ngày 8/5/2024, bà Võ Thị T có đơn khởi kiện bổ sung tranh chấp hợp đồng chuyên nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/5/2023 giữa ông Lâm Văn K với ông Lục Gia C. Sau khi thụ lý yêu cầu độc lập của ông C, bà H và yêu cầu bổ sung của bà T, Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành thông báo cho bị đơn biết mà tiến hành giải quyết vắng mặt bị đơn theo đơn xin vắng mặt ngày 12/9/2023 của ông Nguyễn Đình P mà không tiến hành tống đạt cho bị đơn là vi phạm các Điều 170, 177, 196, 199 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
(ii) Theo quyết định phân công kiểm sát viên ngày 5/6/2023 (bút lục 28) và quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 02/7/2024 (bút lục 157) thì kiểm sát viên là bà Đinh Thị Y nhưng kiểm sát viên tham gia phiên tòa là bà Nguyễn Thị Thanh B mà không có quyết định thay đổi kiểm sát viên là vi phạm Điều 62 của Bộ luật tố tụng dân sự.
(iii) Trước đây, bà Võ Thị T có nhận chuyển nhượng của bà Bùi Thị H1 và ông Phạm Văn K1 phần đất có diện tích 1.082,6m² thuộc thửa đất số 766, tờ bản đồ số 34 tại ấp H, xã M, huyện D nhưng không lập hợp đồng chuyển nhượng mà bà H1 và ông K1 đã ủy quyền cho bà T toàn quyền quyết định đối với thửa đất này theo hợp đồng ủy quyền số 05813, quyển số 05/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/5/2022 của Văn phòng C2, tỉnh Bình Dương. Ngày 16/5/2023, bà T có vay ông Lâm Văn K 200.000.000 đồng với lãi suất 2,5%/ tháng, thời hạn vay 3 tháng và cầm giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất trên. Để làm tin, ông K có yêu cầu bà T ký hợp đồng ủy quyền số 02642, quyển số 05/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/5/2023 của Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương. Ngày 18/5/2023, ông K và ông Lục Gia C ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phần đất trên với giá 100.000.000 đồng và được Ủy ban nhân dân xã M, huyện D chứng thực số 120 quyền số 01/2023-SCT/HĐ, GD. Trên thực tế, giá chuyển nhượng giữa ông K và ông C là 450.000.000 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định hợp đồng ủy quyền số 02642, quyển số 05/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/5/2023 của Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương là giả tạo nhằm che giấu việc vay tiền nhưng lại xác định quan hệ tranh chấp là “tranh chấp hợp đồng ủy quyền, yêu cầu văn bản công chứng vô hiệu, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” là chưa chính xác và thiếu quan hệ tranh chấp. Quan hệ tranh chấp: “tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm lại ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn và bị đơn hủy hợp đồng ủy quyền số 02642, quyển số 05/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/5/2023 của Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương mà không giải quyết hợp đồng vay tài sản là chưa giải quyết triệt để vụ án.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng ủy quyền số 02642, quyền số 05/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/5/2023 của Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương là vô hiệu do giả tạo nhưng lại công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/5/2023 giữa ông Lâm Văn K và ông Lục Gia C được Ủy ban nhân dân xã M, huyện D chứng thực số 120 quyển số 01/2023-SCT/HĐ,GD có hiệu lực là không chính xác vì hợp đồng chuyên này dựa trên hợp đồng ủy quyền giả tạo, các đương sự chuyển nhượng qua lại cho nhau nhiều lần nhưng làm hợp đồng ủy quyền nhằm trốn tránh nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, giả tạo về giá chuyển nhượng.
Đối với ông Lâm Văn K, thừa nhận có cho bà T vay tiền và thế chấp quyền sử dụng đất bằng hợp đồng ủy quyền. Sau đó, ông K chuyển nhượng phần đất này cho ông C khi chưa được sự đồng ý của bà T. Hành vi của ông K có dấu hiệu của tội xâm phạm sở hữu nên khi giải quyết lại cấp sơ thẩm cần làm rõ dấu hiệu trên.
(iv) Từ những phân tích ở mục [1] và [2], do Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và đường lối giải quyết vụ án nên Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Bản án dân sự phúc thẩm số 489/2024/DS-PT ngày 11/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nội dung hủy án:
(i) Quá trình xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã có triệu tập các bên đương sự lên để đối chất làm rõ các mâu thuẫn trong lời khai của đương sự và tài liệu chứng cứ trong hồ sơ nhưng không thực hiện được việc đối chất do nguyên đơn xin vắng mặt, cấp phúc thẩm cũng đã triệu tập để đối chất nhưng nguyên đơn từ chối đối chất nên cấp phúc thẩm không thực hiện được việc đối chất giữa nguyên đơn và bị đơn. Do đó, để làm rõ các tình tiết của vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét các chứng cứ khác có liên quan để giải quyết các yêu cầu của các bên đương sự.
Theo trình bày và tài liệu, chứng cứ của bị đơn cung cấp cho Tòa án cấp sơ thẩm tại các bút lục số từ 41-47 là bản sao hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bị đơn Lê Hồ Phương T và bà Nguyễn Thị Tố U vào ngày 16/10/2020 không có công chứng chứng thực để chứng minh ngày 16/10/2020 bà T chỉ ký hợp đồng với bà U, không ký với ông B. Tuy nhiên, nội dung trình bày của bị đơn không được cấp sơ thẩm xem xét.
(ii) Tại cấp phúc thẩm, bị đơn tiếp tục trình bày và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, làm rõ mối quan hệ giữa nguyên đơn, bị đơn và các bên có liên quan đến việc vay nợ, thế chấp tài sản của bị đơn. Để làm rõ tài liệu chứng cứ nêu trên, theo yêu cầu của bị đơn, Tòa án cấp phúc thẩm đã xác minh, thu thập chứng cứ tại Văn phòng Công chứng T và theo Biên bản làm việc ngày 14/5/2024, Văn phòng Công chứng T cung cấp thông tin kèm theo bản sao Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16/10/2020 giữa bà Lê Hồ Phương T và bà Nguyễn Thị Tố U được chứng thực bởi Văn phòng công chứng A (nay là T) số công chứng 7806, quyển số 04TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/10/2020 thể hiện vào ngày 16/10/2020 bà T có ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà U quyền sử dụng đất thuộc thửa số 1430, tờ bản đồ 09 tọa lạc tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, diện tích 93.9m2 với giá 1.000.000.000 đồng. Hợp đồng này khác với hợp đồng bị đơn cung cấp tại cấp sơ thẩm ở mục ghi chữ “Tôi đã đọc và đồng ý” và dấu vân tay (trong hợp đồng cấp sơ thẩm thu thập không có nội dung này).
(iii) Theo bị đơn trình bày ngoài giao dịch vay tiền của bà U thì bà T không thực hiện giao dịch với bất kỳ người nào vào ngày 16/10/2020. Ngoài giấy vay tiền còn mâu thuẫn về nội dung thì nguyên đơn không cung cấp bất kỳ chứng cứ nào khác liên quan đến mối quan hệ làm ăn, những người có thể làm chứng về mối quan hệ giữa nguyên đơn và bị đơn, việc giao nhận tiền giữa hai bên cũng như phương thức giao nhận tiền đối với các khoản vay trước ngày 16/10/2020 giữa nguyên đơn và bị đơn như trình bày của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Đoàn Quốc D và đồng thời nguyên đơn là bên đi khởi kiện nhưng lại từ chối đối chất với bị đơn tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Do đó, cần xác định thời điểm nguyên đơn cho bị đơn vay là từ khi nào, các lần vay cụ thể bao nhiêu tiền, thời gian nào, lãi phát sinh bao nhiêu, phương thức vay như thế nào để có cơ sở vững chắc xác định nghĩa vụ thanh toán theo quy định của pháp luật.
Mặt khác, theo trình bày của bị đơn thì sau khi nguyên đơn khởi kiện, qua tìm hiểu bị đơn mới phát hiện địa chỉ của nguyên đơn trùng với địa chỉ văn phòng làm việc của ông Phạm Hoàng L là người đại diện cho bị đơn trong quá trình thi hành án đối với vụ án tranh chấp ly hôn giữa bà T2 và ông S. Ông L là người biết rất rõ mối quan hệ vay tiền giữa bà T2, bà T và bà U nhưng sau này lại làm hồ sơ cho ông B đi khởi kiện bị đơn yêu cầu trả nợ. Như vậy, giữa bà T, ông B, Ông L, bà T2, bà U có mối quan hệ như thế nào cũng cần được làm rõ.
(iv) Từ những tình tiết phân tích nêu trên, do tại Tòa án cấp phúc thẩm phát sinh tình tiết mới cần được xem xét ở 2 cấp xét xử đồng thời cần xác minh thu thập thêm chứng cứ liên quan đến các lần ký kết giao dịch vay tiền của nguyên đơn và bị đơn, mối quan hệ làm ăn giữa nguyên đơn, bị đơn và những người tham gia vào các giao dịch với nguyên đơn, bị đơn tại thời điểm trước và sau khi ký kết giấy vay tiền ngày 16/10/2020 để làm rõ các mâu thuẫn và đánh giá đúng bản chất của vụ án làm cơ sở giải quyết vụ án triệt để. Do đó, có cơ sở chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, hủy bản án sơ thẩm; chuyển hồ sơ về Tòa án nhân dân thành phố T giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự.
3. Bản án dân sự phúc thẩm số 399/2024/DS-PT ngày 09/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về việc đòi tài sản, hủy hợp đồng thế chấp, hủy hợp đồng ủy quyền, vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i) Các nguyên đơn bà L (sinh năm 1965), bà T và bà L (sinh năm 1978) yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất; Hủy hợp đồng ủy quyền xử lý tài sản thế chấp; yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; yêu cầu đòi tài sản là quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 50, diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 26.770m2, thuộc tờ bản đồ số 5, tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện T. Các nguyên đơn cho rằng, thửa đất nói trên là tài sản chung của các nguyên đơn và ông L1. Chứng cứ các nguyên đơn cung cấp là hợp đồng hùn vốn mua đất viết tay ngày 25/5/2022. Theo hợp đồng thì bà L (sinh năm 1965), bà T và bà L (sinh năm 1978), ông L1 mỗi người góp số tiền 800.000.000 đồng, tổng số tiền góp là 3.200.000.000 đồng và thống nhất ông L1 là người đứng tên trên giấy chứng nhận QSDĐ, thực hiện các thủ tục nhận chuyển nhượng đất. Tại phiên tòa, người đại diện của các nguyên đơn là bà X và ông L1 đều thừa nhận việc các bên có viết hợp đồng hùn vốn ngày 25/5/2022. Ông L1 cho rằng, số tiền thực tế góp mua đất mỗi người là 550.000.000 đồng, không phải 800.000.000 đồng. Sau khi ông L1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì đã trả lại toàn bộ phần vốn góp cho các bà L (sinh năm 1965), bà T và bà L (sinh năm 1978). Tuy nhiên, ông L1 không cung cấp được chứng cứ chứng minh, ông L1 cho rằng do tin tưởng nên chỉ đưa tiền trả mà không có lập biên nhận giao tiền.
Xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án các nguyên đơn và bị đơn ông L1 đều thừa nhận có việc hùn vốn để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số 50, nhưng giao cho ông L1 là người đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng các nguyên đơn cho rằng mỗi người hùn vốn với số tiền là 800.000.000đồng, phía ông L1 thì xác định mỗi người chỉ hùn vốn số tiền là 550.000.000đồng, nhưng ông L1 xác định đã trả lại phần tiền hùn cho các bà L (sinh năm 1965), bà T và bà L (sinh năm 1978) xong nhưng không cung cấp được chứng cứ để chứng minh, các nguyên đơn thì không thừa nhận có nhận lại phần tiền hùn từ ông L1. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm chưa tiến hành đối chất để làm rõ việc này.
(ii) Về quá trình quản lý và sử dụng đất, bà L (sinh năm 1965) xác định đang quản lý sử dụng đất, phía ông L1 cũng xác định mình là người đang quản lý, sử dụng đất và khi bán đất cho ông D đã giao đất cho ông D tiếp tục, quản lý sử dụng. Tòa sơ thẩm cũng không thu thập chứng cứ để làm rõ quá trình quản lý, sử dụng đất để xem ai là người trực tiếp quản lý đất từ khi ông L1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến nay. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm ông Võ Thanh P là chồng bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1978, ông Nguyễn Văn S chồng bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965, ông Nguyễn Văn H là chồng bà Nguyễn Thị T (có đơn trình bày) đều yêu cầu được tham gia tố tụng đối với vụ án này vì nguồn tiền mua đất là tiền chung của vợ chồng, nhưng quá trình giải quyết vụ án Tòa sơ thẩm không đưa ông S, ông P và ông H tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Từ những vi phạm, thiếu sót trên của Tòa án cấp sơ thẩm, xét thấy việc thiếu sót này tại cấp phúc thẩm không khắc phục và không bổ sung được. Do đó, để đảm bảo cho việc xét xử của Tòa án hai cấp và để giải quyết toàn diện vụ án và đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy cần hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
4. Bản án dân sự phúc thẩm số 97/2024/DS-PT ngày 11/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i) Theo hồ sơ thể hiện: Thửa đất số 588, diện tích 2.570m2 đất trồng cây lâu năm thuộc tờ bản đồ G.159.I.A tọa lạc tại phường B, thành phố B đứng tên ông Nguyễn Mạnh Q có nguồn gốc nhận chuyển nhượng của ông Trần Xuân L năm 2011. Năm 2012, ông Q đã tách thửa đất này thành thửa 655 diện tích 2.070m2 và thửa 656 diện tích 500m2 (BL 02,04,77). Sau đó, ông Q đã chuyển nhượng thực tế diện tích là 500m2 thuộc thửa đất 655 cho bà Võ Thị Hồng V; còn diện tích đất thửa 656 chỉ là do các đương sự nhầm lẫn trong việc tách thửa đất trên giấy tờ về diện tích đất chuyển nhượng, dẫn đến các bên lập Hợp đồng trên giấy tờ chuyển nhượng cho nhau là thửa 656. Tại thời điểm ông Q chuyển nhượng đất cho bà Võ Thị Hồng V thì thửa đất này tuy chỉ đứng tên ông Q nhưng được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Q với bà Trần Thị Thu V1. Năm 2012, ông Q đã chuyển nhượng cho bà Võ Thị Hồng V 500m2 thuộc một phần thửa 655 trong tổng diện tích là 2.070m2, lúc này ông Q, bà Trần Thị Thu V1 chưa ly hôn. Tháng 8/2017 ông Q và bà Trần Thị Thu V1 ly hôn, đến ngày 31/7/2019, ông Q và bà Trần Thị Thu Vân T4 lập Văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung vợ chồng sau ly hôn, trong đó có thỏa thuận về phân chia diện tích 500m2 thuộc một phần thửa 655 mà ông Q đã chuyển nhượng trên thực tế, hiện nay do ông T1 và bà T2 đang sử dụng (BL 157-162). Như vậy, việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của bà Trần Thị Thu V1. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà Trần Thị Thu V1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi phạm thủ tục tố tụng.
(ii) Diện tích thực tế mà các bên thỏa thuận chuyển nhượng đã sử dụng ổn định từ năm 2012 cho đến nay là 500m2 thuộc một phần thửa 655, nhưng do nhầm lẫn nên trên giấy tờ ghi thửa 656. Trong quá trình Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết thì nguyên đơn chỉ khởi kiện yêu cầu hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là thửa 656 nhưng bị đơn là ông T và vợ chồng ông T1, bà T2 không đồng ý mà cho rằng việc chuyển nhượng đã thanh toán tiền và nhận đất để sử dụng và ông T1, bà T2 đã xây nhà ở, làm quán kinh doanh cà phê. Do đó, trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm khi hủy hết các hợp đồng chuyển nhượng liên quan đến thửa 656 thì phải giải quyết diện tích đất thực tế các đương sự đã chuyển nhượng cho nhau là 500m2 thuộc một phần thửa 655 (ông Q đang đứng tên) nhưng lại không giải quyết là chưa xem xét hết những vấn đề có liên quan đến nội dung vụ án không đảm bảo quyền và lợi ích của người nhận chuyển nhượng cuối cùng là vợ chồng ông T1, bà T2.
(iii) Tại Họa đồ trích đo hiện trạng sử dụng đất ngày 21-11-2023 (BL 103) thể hiện diện tích thực tế mà ông T1 và bà T2 đang quản lý sử dụng là 599,9m2 gồm: 413,3m2 thuộc một phần thửa 655 ông Q đang đứng tên; 132,9m2 thuộc một phần thửa 284 và 53,7m2 thuộc một phần thửa 589. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm cũng không làm rõ các đương sự có yêu cầu giải quyết cụ thể về diện tích đất này không, một phần diện tích đất thuộc thửa 284 thuộc quyền sử dụng của ai, có yêu cầu gì không, để đưa vào tham gia tố tụng.
(iv) Thửa đất 656 mà các đương sự nhầm lẫn chuyển nhượng cho nhau, hồ sơ thể hiện tại trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cập nhật đăng ký biến động tên của bà Võ Thị Hồng V và sau đó là tên của ông Nguyễn Lương T nhưng trong quá trình giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập chứng cứ về hồ sơ chuyển nhượng thửa đất này tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố B giữa các bên đương sự đối với thửa đất này. Tại phiên tòa hôm nay, ông T, ông T1 đều thừa nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T sang cho ông T1, bà T2 đã hoàn thành và ông T1, bà T2 đã được sang tên tại trang 4 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét đương sự có yêu cầu hủy trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cập nhật biến động sang tên ông T1, bà T2 hay không. Bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 656 vợ chồng ông T1, bà T2 đang giữ nhưng Bản án không tuyên buộc vợ chồng ông T1, bà T2 phải trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Q. Cũng tại phiên tòa phúc thẩm, ông T1, bà T2 trình bày đã thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 656 cho bà Nguyễn Thị Huyền T5 để vay số tiền 200.000.000đ nhưng cấp sơ thẩm không xác minh thu thập chứng cứ đưa bà T5 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không thể thi hành bản án.
(v) Ngoài ra, phần diện tích đất thuộc thửa 656 mà các bên thỏa thuận theo các hợp đồng chuyển nhượng thì ông Q vẫn sử dụng ổn định, còn phần diện tích 500m2 thuộc một phần thửa 655 là diện tích thực tế được các bên chuyển nhượng và giao đất, do ông T1 và bà T2 đang sử dụng. Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 01/11/2023 và chứng thư thẩm định giá (BL 101, 123) thì trên đất ông T1, bà T2 đã làm ở, nhà gỗ, mái hiên để kinh doanh quán cà phê, tổng giá trị 404.581.444đ. Tuy nhiên, tại bản án sơ thẩm, Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc tuyên hủy các hợp đồng chuyển nhượng liên quan đến diện tích 500m2 thuộc thửa 656 nhưng lại không xem xét giải quyết việc chuyển nhượng diện tích 500m2 thuộc một phần thửa 655 là diện tích thực tế được các bên chuyển nhượng và giao đất có hiệu lực hay không cũng như không xem xét giải quyết số tiền mà ông T1, bà T2 đã bỏ ra để đầu tư xây dựng các công trình trên đất là chưa giải quyết triệt để những vấn đề có liên quan đến nội dung của vụ án.
Từ những phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm thủ tục tố tụng và nội dung làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.
Do đó, cần phải hủy toàn bộ bản án sơ thẩm. Chuyển hồ sơ về cho Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, thụ lý giải quyết lại vụ án theo đúng quy định pháp luật.
5. Bản án dân sự phúc thẩm số 79/2024/DS-PT ngày 02/02/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng ủy quyền và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i) Tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ thể hiện, quá trình tố tụng Tòa án nhân dân thị xã B không đưa Văn phòng C, Văn phòng C1 và Ủy ban nhân dân thị xã B vào tham gia vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót nghiêm trọng, vì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; yêu cầu phản tố của bị đơn có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trên.
(ii) Tại cấp phúc thẩm, ngày 12/01/2024 bà Phạm Thị N1 là vợ của ông Hoàng Ngọc S nộp đơn tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương yêu cầu đưa bà N1 vào tham gia tố tụng trong vụ án này, với lý do số tiền 2.300.000.000 đồng mà ông S thanh toán tiền chuyển nhượng đất cho ông H là tiền của vợ chồng bà N1 và ông S. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông H với ông S và buộc ông H trả lại cho cá nhân ông S số tiền gốc và bồi thường tổng cộng 3.994.550.000 đồng là không đảm bảo quyền lợi cho bà N1.
(iii) Qua tài liệu, chứng cứ là giấy kết hôn do Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước cấp ngày 28/01/2008 thể hiện bà Phạm Thị N1 với ông Hoàng Ngọc S là vợ chồng được pháp luật công nhận. Số tiền ông S thanh toán chuyển nhượng cho ông H phát sinh trong thời kỳ hôn nhân giữa bà N1 với ông S. Do đó, cần thiết phải đưa bà N1 vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới giải quyết đảm bảo quyền lợi cho các bên. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà N1 vào tham gia tố tụng là thiếu sót nghiêm trọng.
(iv) Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy, tại Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 09-2020 ngày 26/8/2020 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã B vẽ thì phần đất 2.000m2 (đo thực tế 2.009,7m2) do ông H chuyển nhượng cho ông S có cạnh hướng Tây tiếp giáp đường đất 04m. Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập, làm rõ đường đi tại hướng Tây phần đất ông H chuyển nhượng cho ông S có tình trạng pháp lý như thế nào (đường chung công cộng hay đường riêng tự mở), ý kiến của cơ quan quản lý Nhà nước về đường đi này như thế nào mới giải quyết toàn diện vụ án.
(v) Ông P trình bày thế chấp giấy chứng nhận thửa đất số 66 cho ông N, sau đó ông H (anh của ông P) đến chuộc lại giấy chứng nhận thửa đất số 66 nên ông N sang tên lại cho ông H chứ không phải bà H1 nhờ ông H đứng tên giấy chứng nhận.
Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, Tòa án đã triệu tập đối chất trực tiếp giữa ông P, ông N, bà H1, bà T2, ông H nhưng bà H1, bà T2, ông N không đến đối chất. Do đó, chưa làm sáng tỏ về những mâu thuẫn trong vụ án.
(vi) Cấp sơ thẩm chưa xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ thửa đất số 209, tờ bản đồ số 6, phường T, thị xã B của bà Võ Thị H1 có lối đi vào hay không, hay đi qua quyền sử dụng đất thuộc thửa 66 của ông Triệu Văn H có có cơ sở đánh giá vụ án.
Ngoài ra cần thu thập làm rõ diện tích 4.267m2 thửa đất số 66, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại khu phố D, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương cấp quyền sử dụng cho cá nhân bà H1 hay tài sản chung với người khác
(vii) Những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trên và việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ cấp phúc thẩm không thể khắc phục. Do đó, có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn. Hủy bản án dân sự sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án theo quy định của pháp luật.
6. Bản án dân sự phúc thẩm số 531/2024/DS-PT ngày 07/11/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại về tài sản
Nội dung hủy án:
(i) Xét, thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm từ thời điểm thụ lý đến trước thời điểm xét xử ngày 09/4/2024:
Các văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý vụ án số 281/TB-TLVA ngày 06/8/2018; Thông báo phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 281 ngày 22/5/2020; Thông báo phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 281 ngày 22/5/2020; số 281 ngày 09/10/2022; số 281 ngày 22/11/2022 và các biên bản phiên họp, biên bản hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 193 ngày 18/8/2023 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 254 ngày 16/10/2023 đều không thể hiện bà Nguyễn Thị Ngọc S là người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn M, anh Lê Thanh H. Các biên bản tống đạt cũng không thể hiện Tòa án cấp sơ thẩm có tống đạt văn bản tố tụng cho bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Lê Văn M và anh Lê Thanh H, trong khi ông M, anh H là nguyên đơn và vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án tiến hành phiên họp, phiên hòa giải (các bút lục 166-171; 147-151; 152-156; 157-163; 267-273).
Tuy nhiên, biên bản phiên tòa, biên bản thảo luận của Hội đồng xét xử vào các ngày 07/9/2023, ngày 25/9/2023, ngày 21/11/2023 và ngày 11/01/2024 thể hiện bà Nguyễn Thị Ngọc S là người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn M, anh Lê Thanh H. Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện ngoài giấy ủy quyền của ông Lê Văn M ngày 17/10/2017 (bút lục 19-20) và giấy ủy quyền của anh Lê Thanh H ngày 15/6/2018 (bút lục 18), thì ông Lê Văn M, anh Lê Thanh H không có giấy ủy quyền nào khác (các bút lục 250A-250C; 254-254D).
Đến ngày 18/01/2024, bà Nguyễn Thị Ngọc S mới nộp cho Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo giấy ủy quyền ngày 11/10/2023 và Giấy ủy quyền bổ sung ngày 12/01/2024 của anh Lê Thanh H nội dung anh Lê Thanh H ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Ngọc S tham gia tố tụng giải quyết vụ kiện với vợ chồng bà Đoàn Thị T, ông Huỳnh Trần Tiến L (bút lục 297-299).
Xét giấy ủy quyền của ông Lê Văn M và anh Lê Thanh H:
- Ngày 11/10/2017, ông Lê Văn M ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Ngọc S tham gia tố tụng trong vụ án tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất” với bị đơn Đoàn Thị T, thời hạn ủy quyền kể từ ngày được cơ quan có thẩm quyền công chứng và chấm dứt khi vụ kiện được giải quyết xong bằng bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc chấm dứt theo quy định của pháp luật.
- Ngày 15/6/2018, anh Lê Thanh H lập giấy ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Ngọc S tham gia tố tụng và giải quyết các vấn đề có liên quan theo Thông báo về phiên họp kiểm tra, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 450/TB-TA ngày 18/01/2018. Thời hạn ủy quyền: giấy ủy quyền này có hiệu lực kể từ ngày được cơ quan có thẩm quyền công chứng đến khi công việc ủy quyền được hoàn thành hoặc bị chấm dứt theo quy định pháp luật.
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy, giấy ủy quyền ngày 11/10/2017 của ông Lê Văn M và giấy ủy quyền ngày 15/6/2018 của anh Lê Thanh H đều ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Ngọc S tham gia tố tụng trong vụ án thụ lý số 450 ngày 30/10/2017 và đến ngày 18/6/2018, Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 177/2018/QĐST-DS với lý do nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc S đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Lê Văn M, Lê Thanh H rút đơn khởi kiện, quyết định đã có hiệu lực. Như vậy, nội dung công việc ông M, anh H ủy quyền cho bà S thực hiện đã hoàn thành và vụ kiện được giải quyết xong bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nên việc ủy quyền của ông Lê Văn M, anh Lê Thanh H cho bà Nguyễn Thị Ngọc S đã chấm dứt theo quy định tại khoản 3 Điều 140 Bộ luật dân sự năm 2015.
Sau khi bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Lê Văn M và anh Lê Thanh H nộp đơn khởi kiện lại và Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý ngày 06/8/2018. Ông Lê Văn M, anh Lê Thanh H không lập giấy ủy quyền mới để ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Ngọc S tham gia tố tụng trong vụ án thụ lý số 281 ngày 06/8/2018. Khi xét xử vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ giấy ủy quyền của ông Lê Văn M ngày 17/10/2017 để xác định bà S là người đại diện theo ủy quyền của ông M, là không đúng theo quy định tại các điều 85, 86, 89 và Điều 90 Bộ luật tố tụng dân sự.
Ngày 18/01/2024, bà Nguyễn Thị Ngọc S mới nộp giấy ủy quyền ngày 11/10/2023 của anh Lê Thanh H ủy quyền cho bà S tham gia tố tụng. Như vậy, từ khi thụ lý vụ án đến trước ngày mở phiên tòa ngày 09/4/2024, Tòa án cấp sơ thẩm không tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Lê Thanh H, là vi phạm thủ tục tố tụng về tống đạt được quy định tại Chương X của Bộ luật tố tụng dân sự.
(ii) Xét, thủ tục khởi kiện bổ sung của các nguyên đơn:
Ngày 13/6/2022, các nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc S, ông Lê Văn M, anh Lê Thành H3 có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu bị đơn Đoàn Thị T bồi thường thiệt hại tài sản với số tiền 20.000.000 đồng nhưng phần cuối đơn khởi kiện chỉ có bà Nguyễn Thị Ngọc S ký tên (bút lục 232).
Ngày 12/7/2022, Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo ban hành Thông báo nộp tạm ứng án phí cho bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Lê Văn M và anh Lê Thanh H với số tiền nộp là 500.000 đồng. (bút lục 233-234).
Ngày 12/7/2022, Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo ban hành thông báo thụ lý số 281/TB-TLVA thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung của bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Lê Văn M và anh Lê Thanh H (bút lục 235).
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn chưa đảm bảo theo quy định tại Điều 5, Điều 186, 187, 188 và Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Ngọc S rút yêu cầu khởi kiện bổ sung này, nên Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm khi xem xét thụ lý yêu cầu khởi kiện của đương sự.
(iii) Từ những phân tích trên cho thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nên Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại. Do hủy bản án sơ thẩm, nên Hội đồng xét xử không xem xét yêu cầu kháng cáo cũng như yêu cầu xem xét thẩm định, định giá lại tài sản tranh chấp của bị đơn Đoàn Thị T.
7. Bản án dân sự phúc thẩm số 242/2024/DS-PT ngày 11/10/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về việc tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng vay tài sản”
Nội dung sửa án:
Về hậu quả của hợp đồng vô hiệu, như đã phân tích trên thì thực chất đây là hợp đồng vay có thế chấp tài sản và các bên có thỏa thuận lãi suất nhưng không thống nhất về mức lãi suất và có tranh chấp về lãi suất. Cấp sơ thẩm căn cứ vào Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 để tính lãi đối với số tiền 486.000.000 đồng theo mức lãi suất 09%/năm tính từ ngày 28/8/2015 đến ngày 18/01/2024 là 3066 ngày với số tiền lãi phải trả là 367.416.000 đồng là chưa chính xác, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H, bà Th. Do đó, cần tính lãi từ ngày 28/8/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm (Ngày 28/3/2024) là 08 năm 07 tháng (486.000.000 đồng x 9%/năm x 08 năm 07 tháng) với số tiền 375.435.000 đồng là phù hợp.
Như vậy, ông H2 và bà Nh cùng phải có nghĩa vụ liên đới trả cho ông H và bà Th số tiền 861.435.000 đồng (gồm nợ gốc 486.000.000 đồng và lãi là 375.435.000 đồng)
8. Bản án dân sự phúc thẩm số 414/2024/DS-PT ngày 12/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng vay tài sản
Nội dung sửa án:
Xét hợp đồng vay tài sản ngày 05/5/2022, lãi suất cho vay và trách nhiệm liên đới, Hội đồng xét xử xét thấy:
Như đã nhận định trên: Việc giao nhận tiền giữa anh P và anh H không phải thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà là thực hiện hợp đồng vay tài sản ngày 05/5/2022 (gồm các khoản: 300.000.000 đồng từ hợp đồng vay có thế chấp trước đó, anh H giao tiếp tiền mặt cho anh P 34.000.000 đồng và anh H chuyển khoản 16.000.000 đồng. Tổng cộng 350.000.000 đồng);
Do đó, hợp đồng vay tài sản ngày 05/5/2022, giữa anh H và anh P phát sinh hiệu lực nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc anh P phải trả cho anh H số tiền vay 350.000.000 đồng (anh P thừa nhận vay 350.000.000 đồng) là phù hợp;
Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tính tiền lãi phát sinh từ 05/5/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm là 23 tháng với mức lãi suất 0,83%/tháng, thành tiền là 66.815.000 đồng là chưa phù hợp:
Bởi vì, tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của anh P, chị X là chị L thừa nhận anh P vay với lãi suất 5%/tháng như vậy là có thỏa thuận về lãi suất cho vay nhưng lãi suất cho vay vượt quá quy định nên cần tính lại lãi suất cho vay với mức lãi suất 1,66%/tháng theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự;
Nên số tiền lãi phát sinh được tính như sau: 350.000.000 đồng x 1,66%/tháng x 23 tháng thành tiền là 133.630.000 đồng và được trừ đi số tiền anh P, chị X đã chuyển trả cho anh H 60.000.000 đồng vào ngày 23/7/2023, nên anh P có nghĩa vụ trả số tiền lãi cho anh H với số tiền 73.630.000 đồng.
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc anh P có nghĩa vụ trả vốn vay và tiền lãi phát sinh cho anh H là chưa phù hợp, bởi vì:
Đại diện theo ủy quyền của chị X cho rằng cá nhân anh P vay, chị X không biết là có sự mâu thuẫn với lời thừa nhận của chị X là ngày 23/7/2023, chị X có nhờ anh Lê Trung T chuyển tiền vào tài khoản của anh H để trả số tiền lãi phát sinh do anh P vay của anh H;
Nên có căn cứ xác định chị X biết việc anh P vay tiền của anh H và vợ chồng chị X đồng ý trả lãi cho anh H như đã thỏa thuận. Căn cứ Luật hôn nhân và gia đình, nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân là nợ chung của vợ chồng cho nên cần buộc anh P, chị X có trách nhiệm liên đới trả cho anh H số tiền vay 350.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh là 73.630.000 đồng;
Do đó cần sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm.
Vì thế Hội đồng xé xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của Huỳnh Tấn H.
9. Bản án dân sự phúc thẩm số 301/2024/DS-PT ngày 22/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về việc tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng vay
Nội dung sửa án:
Do hợp đồng ủy quyền là giả tạo nên Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết hợp đồng vay tài sản (giao dịch có hiệu lực pháp luật) và ghi nhận sự tự nguyện của bà Lê Thị K và chị Nguyễn Thị Ngọc Đ1 trả lại cho bà Phạm Thị Kim C số tiền vay là 100.000.000 đồng theo hợp đồng vay tài sản ngày 12/3/2019 và tiền lãi tính từ ngày 12/3/2019 đến ngày 23/01/2024 (04 năm 10 tháng 11 ngày) với mức lãi suất 20%/năm là có căn cứ, có lợi cho bà Phạm Thị Kim C. Tuy nhiên, tòa án cấp sơ thẩm tính số tiền lãi của 04 năm 10 tháng 11 ngày với số tiền là 96.888.600 đồng là không chính xác, mà số tiền lãi cụ thể là: 80.000.000 đồng + 16.667.000 đồng + 611.000 đồng = 97.278.000 đồng.
10. Bản án dân sự phúc thẩm số 367/2024/DS-PT ngày 19/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy chỉnh lý biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ, di dời tài sản trên đất
Nội dung sửa án:
Tại phiên toà phúc thẩm, các đương sự gồm bà Dương Thị L, bà Nguyễn Thị Thu T, ông Bùi Kim L1, bà Huỳnh Thị N1 thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, cụ thể như sau:
- Huỷ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (không có tài sản gắn liền) số công chứng 10068, quyển số 11/2022/TPCC-SCC/HĐGD ngày 30/11/2022 tại Văn phòng C1, giữa bà Dương Thị L với ông Đoàn Thanh P, đối tượng là thửa đất 68, tờ bản đồ số 12, diện tích 271m2, tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
- Huỷ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (không có tài sản gắn liền), số công chứng 170, quyển số 01/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/01/2023 tại Văn phòng C1, giữa ông Bùi Kim L1 với ông Đoàn Thanh P, bà Nguyễn Thị Thu T, đối tượng là thửa đất 68, tờ bản đồ số 12, diện tích 271m2, tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
- Bà Dương Thị L có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Thu T số tiền 199.800.000 đồng (bao gồm 150.000.000 đồng tiền gốc và 49.800.000 đồng tiền lãi).
- Bà Nguyễn Thị Thu T có nghĩa vụ trả cho ông Bùi Kim L1 số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 400.000.000 đồng.
- Về lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: Bà Dương Thị L phải chịu 4.000.000 đồng (bà L đã nộp xong).
- Về chi phí tố tụng tổng cộng 28.000.000 đồng: Bà Nguyễn Thị Thu T phải chịu 14.000.000 đồng, bà Dương Thị L phải chịu 14.000.000 đồng. Do bà L đã nộp tạm ứng trước nên bà T có nghĩa vụ trả lại cho bà L số tiền 14.000.000 đồng.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Bùi Kim L1 phải chịu án phí đối với tranh chấp về dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 600.000 đồng. Bà Nguyễn Thị Thu T phải chịu án phí đối với tranh chấp về dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 20.000.000 đồng. Bà Dương Thị L phải chịu án phí đối với tranh chấp về dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 9.990.000 đồng (bà L có yêu cầu được miễn án phí dân sự sơ thẩm do là người cao tuổi).
Hội đồng xét xử xét thấy, sự thoả thuận trên của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên căn cứ Điều 300 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của các đương sự như ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An.