Tổng hợp 10 bản án huỷ, sửa về tội “Không chấp hành án”

MỤC LỤC

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 111/2020/HS-PT ngày 13/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với các bị cáo Ngô Văn C và Phạm Thị K do có kháng cáo của các bị cáo

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 14/2025/HS-PT ngày 06/02/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với bị cáo Nguyễn Văn N do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 65/2023/HS-PT ngày 21/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với các bị cáo Đinh Thị Đ, Lê Thị Trang và Trần Văn H do có kháng cáo của các bị cáo

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 256/2022/HS-PT ngày 03/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với các bị cáo Phạm Thị M và Nguyễn Văn L do có kháng cáo của các bị cáo

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 28/2023/HS-PT ngày 07/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với các bị cáo Võ Ngọc Th và Nguyễn Thị L do có kháng cáo của các bị cáo

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 34/2022/HS-PT ngày 31/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với bị cáo Đàm H do có kháng cáo của bị cáo Đàm H

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 04/2021/HS-PT ngày 09/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với các bị cáo Tráng Văn S, Tráng Văn B và Thèn Thị R do có kháng cáo của các bị cáo

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 85/2022/HS-PT ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với bị cáo Phạm Văn Q do có kháng cáo của bị cáo Phạm Văn Q và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị T

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 07/2024/HS-PT ngày 29/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với bị cáo Trần Trung H do có kháng cáo của bị cáo Trần Trung H

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 148/2023/HS-PT ngày 21/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với bị cáo Trần Văn S do có kháng cáo của bị cáo Trần Văn S

 

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 111/2020/HS-PT ngày 13/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với các bị cáo Ngô Văn C và Phạm Thị K do có kháng cáo của các bị cáo

Nội dung hủy án:

Như vậy, mặc dù các bị cáo là người có điều kiện Thi hành án như xác minh của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, nhưng các bị cáo chưa bị xử phạt hành chính về hành vi không chấp hành án, chưa bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật, trên thực tế thì Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ đang tiến hành biện pháp cưỡng chế, thì C và K có hành vi chống đối. Do vậy, hành vi của các bị cáo chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Không chấp hành án” nên Hội đồng xét xử xét thấy cần hủy bản án của cấp sơ thẩm để điều tra, truy tố về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm.

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 14/2025/HS-PT ngày 06/02/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với bị cáo Nguyễn Văn N do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N

Nội dung sửa án 

Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N, về việc xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, xin giảm hình phạt hoặc xin được hưởng án treo: Khi lượng hình, Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định bị cáo N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và xác định bị cáo N phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; gia đình có công với cách mạng và áp dụng đối với bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét Hội đồng xét xử sơ thẩm xử phạt bị cáo N mức án 09 tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, đặc điểm nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo N. Trong giai đoạn phúc thẩm, bị cáo N nộp số tiền 25.000.000 đồng để bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn dân sự Nguyễn Văn Q nên Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm đối với bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Từ đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định giảm một phần hình phạt cho bị cáo N.

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 65/2023/HS-PT ngày 21/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với các bị cáo Đinh Thị Đ, Lê Thị Trang và Trần Văn H do có kháng cáo của các bị cáo

Nội dung sửa án 

(i) Xét kháng cáo của các bị cáo thì thấy rằng: Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Lê Thị Tr 06 tháng tù, Trần Văn H 07 tháng tù là tương xứng với tính chất mức độ mà các bị cáo gây ra. Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Bị cáo Lê Thị Tr có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn sau khi phạm tội bị cáo thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Thị Tr, về biện pháp chấp hành hình phạt, cho bị cáo tự cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ giáo dục răn đe và phòng ngừa tội phạm trong xã hội.

(ii) Đối với bị cáo Trần Văn H bị cáo có nhân thân xấu, tuy nhiên do nhận thức pháp luật có phần hạn chế, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, vì vậy cần xem xét chấp nhận nhận kháng cáo của bị cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng, nhận đạo của pháp luật.

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 256/2022/HS-PT ngày 03/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với các bị cáo Phạm Thị M và Nguyễn Văn L do có kháng cáo của các bị cáo

Nội dung sửa án 

Đối với bị cáo Nguyễn Văn L: Mức hình phạt 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo L là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tuy nhiên bản án sơ thẩm buộc bị cáo phải tập trung cải tạo là không cần thiết, bởi lẽ, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo ăn hối cải về hành vi phạm tội của mình và đã khắc phục hậu quả trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Vợ bị cáo là Phạm Thị M cũng là bị cáo trong vụ án, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo cung cấp thêm tài liệu thể hiện bị cáo bị bệnh tiểu đường, hòan cảnh gia đình khó khăn, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Do đó, cần chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo cho bị cáo được tự cải tạo ngoài xã hội chịu sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình bị cáo cũng đủ tác dụng trừng trị, răn đe giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 28/2023/HS-PT ngày 07/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với các bị cáo Võ Ngọc Th và Nguyễn Thị L do có kháng cáo của các bị cáo

Nội dung sửa án 

Giai đoạn phúc thẩm, các bị cáo cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ là biên lai thu tiền án phí hình sự sơ thẩm, tiền chi phí cưỡng chế, lệ phí thi hành án; đơn xin giảm nhẹ hình phạt, đơn trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông nội của bị cáo Thái được tặng Bằng khen kháng chiến chống Mỹ, bản Th các bị cáo thường xuyên đau ốm; mặc khác các bị cáo còn cung cấp thêm giấy nhận tiền và lối đi có xác nhận của chính quyền địa phương, giấy mượn GCNQSDĐ có nội dung thể hiện ông Nguyễn Ngọc Ađã nhận của Võ Ngọc Th, Nguyễn Thị L số tiền 5.000.000 đồng, Võ Ngọc Th, Nguyễn Thị L đã giao trả lại lối đi 568m2 cho ông A và cho ông A mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; thừa nhận bản Th do hiểu biết pháp luật kém, đã hành vi vi phạm pháp luật nên thật sự ăn ăn hối cải, thừa nhận hành vi phạm tội và đồng ý với tội dA và điều luật như bản án sơ thẩm đã tuyên.

Hội đồng xét xử xét thấy, các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, giai đoạn phúc thẩm phát sinh nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, trực tiếp gặp người liên quan để thoả thuận về việc trả tiền, lối đi chung, cho thấy thái độ và ý thức của các bị cáo đã thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội và cung cấp thêm cho Toà án nhiều tình tiết giảm nhẹ khác nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét quyết định hình phạt. Với tính chất mức độ hành vi phạm tội như trên và xét nhân Th, thái độ ăn năn hối cải tự nguyện sửa chữa của các bị cáo thể hiện việc các bị cáo có thể tự cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của gia đình và địa phương, việc cho các bị cáo được hưởng án treo không gây nguy hiểm đến tình hình trật tự trị an. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho các bị cáo được hưởng án treo.

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 34/2022/HS-PT ngày 31/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với bị cáo Đàm H do có kháng cáo của bị cáo Đàm H

Nội dung sửa án 

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Đàm H đã thực sự ăn năn, hối cải, đã tự nguyện trả lại đất cho ông Đàm H H. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp cho Tòa án thông báo số 20/TB –UBND ngày 19/8/2022 Thông báo của UBND xã Hồng Nam về việc ông Đàm H trả lại đất cho ông Đàm H H; bị cáo là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hộ ít nghiêm trọng, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo được nhà nước tặng Bằng khen khi tham gia bảo vệ biên giới, có nơi cư trú rõ ràng đây cũng là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51 bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo có đủ điều kiện để được hưởng án treo theo nghị quyết số 01/2022 hướng dẫn áp dụng điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo, nên không cần thiết bắt bị cáo phải cách ly ra khỏi xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục vẫn bảo đảm tác dụng giáo dục và pHng ngừa tội phạm, vừa thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật vừa thể hiện sự khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo; Xét thấy, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng và người bào chữa cho bị cáo Đàm H về việc sửa bản án sơ thẩm theo hướng cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 04/2021/HS-PT ngày 09/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với các bị cáo Tráng Văn S, Tráng Văn B và Thèn Thị R do có kháng cáo của các bị cáo

Nội dung sửa án 

(i) Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo: Hội đồng xét xử thấy rằng các bị cáo đều thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, vì các bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ giao 02 thửa đất cho 02 chủ sở hữu khác nhau. Tuy nhiên, các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi khởi tố vụ án các bị cáo đã tự nguyện bàn giao đất cho người được thi hành án, thuộc trường hợp tự nguyện khắc phục hậu quả; các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho cả 03 bị cáo Tráng Văn S, Tráng Văn B, Thèn Thị Rđược hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật, tuy nhiên mức án 09 (chín) tháng tù đối với cả 03 bị cáo là có phần nghiêm khắc và chưa phân hóa vai trò của từng bị cáo nên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo là có căn cứ, được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

(ii) Đánh giá vai trò phạm tội của từng bị cáo: Trong vụ án này các bị cáo cùng thực hiện tội phạm nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ với nhau nên thuộc trường hợp phạm tội giản đơn, không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Mặc dù trong giai đoạn điều tra bị cáo Stự khai nhận bị cáo là người khởi sướng nhưng tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm bị cáo thay đổi lời khai cho rằng cả 3 anh em bị cáo cùng tự tham gia canh tác trên thửa đất của ông S2, ông Cvà không chấp hành quyết định cưỡng chế của Cơ quan thi hành án, các bị cáo Bvà Rưi cùng xác nhận lời khai của bị cáo Slà đúng. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo Slà người anh lớn trong gia đình, bản thân bị cáo không những không khuyên can, dạy bảo các bị cáo B, Rphải có lối sống tuân theo pháp luật, trái lại bị cáo còn trực tiếp cùng các bị cáo B, Rcanh tác trên 02 thửa ruộng bậc thang của ông S2 và ông C, cho dù đã có quyết định cưỡng chế thi hành án của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, bị cáo cũng được đánh giá là người có vai trò tham gia tích cực nhất bằng việc nhờ anh Tráng Văn Mlà con trai của bị cáo đi cày, bừa ruộng giúp, nhờ vợ bị cáo là bà Vàng Thị Mđi mua giống ngô để reo. Để bảo đảm nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong vụ án có đồng phạm, cần xử phạt bị cáo Tráng Văn Smức án cao hơn so với bị cáo B, bị cáo Rmới tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo.

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 85/2022/HS-PT ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với bị cáo Phạm Văn Q do có kháng cáo của bị cáo Phạm Văn Q và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị T

Nội dung sửa án 

Xét kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Q có đơn kháng cáo kêu oan, nhưng sau đó đã thay đổi nội dung kháng cáo, xin được giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Hội đồng xét xử xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất vụ án; hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt 09 tháng tù là phù hợp với yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm tại địa phương.Tuy nhiên, tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo đã tự nguyện giao con là cháu Phạm Quốc C cho chị Nguyễn Thị T vào ngày 18/7/2022 và đã nộp khoản tiền bị xử phạt vi phạm hành chính. Đây là tình tiết mới trong giai đoạn phúc thẩm. Mặt khác, mặc dù bị cáo đã có hành vi không giao con theo quyết định của Bản án sơ thẩm số 41/2019/HNGĐ – ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân quận K cũnglà do xuất phát từ mong muốn chính đáng được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Phạm Quốc C. Đến nay bị cáo đã nhận thức được việc không chấp hành bản án là vi phạm pháp luật. Xét thấy bị cáo mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng việc không chấp hành bản án là sự thể hiện coi thường pháp luật, sẽ tạo tiền đề xấu cho nhưng người khác, nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nhưng không cho bị cáo được hưởng án treo.

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 07/2024/HS-PT ngày 29/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với bị cáo Trần Trung H do có kháng cáo của bị cáo Trần Trung H

Nội dung sửa án 

Xét kháng cáo của bị cáo tại phiên toà, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng; được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đã thực sự ăn năn hối cải; đã tự nguyện khắc phục toàn bộ hậu quả của hành vi phạm tội. Bị cáo phạm tội một phần xuất phát từ việc nhận thức chưa đầy đủ quy định của pháp luật. Một phần là do yêu thương con nên không muốn giao cho người khác nuôi dưỡng. Với các nội dung nêu trên, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo cải tạo tại cộng đồng dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ tác dụng răn đe và đảm bảo việc cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt. Do vậy, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái tại phiên tòa phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng cho bị cáo Trần Trung H hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định tại các khoản 1,2 và 3 Điều 36 Bộ luật hình sự là thỏa đáng và có căn cứ pháp luật, được Hội đồng xét xử chấp nhận. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, không có việc làm và thu nhập ổn định. Nên Hội đồng xét xử miễn khấu trừ thu nhập hàng tháng đối với bị cáo.

Việc sửa bản án sơ thẩm là do có phát sinh tình tiết mới tại phiên toà, nên cấp sơ thẩm không có lỗi.

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 148/2023/HS-PT ngày 21/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử về tội “Không chấp hành án” đối với bị cáo Trần Văn S do có kháng cáo của bị cáo Trần Văn S

Nội dung sửa án 

Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy rằng; Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi bị bắt theo lệnh truy nã đã vận động gia đình thực hiện việc giao con cho mẹ trực tiếp chăm sóc, nên áp dụng điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; tuy nhiên với mức hình phạt 18 tháng tù là quá nghiêm khắc; bởi lẽ hành vi của bị cáo xuất phát từ tình thương của một người cha đối với con của mình, quá trình nuôi dưỡng đã chăm sóc tốt, hành vi của bị cáo chưa gây hậu quả gì và cũng đã tiến hành giao con cho bà Đỗ Thị Hà Minh. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và xuất trình được tình tiết giảm nhẹ mới là gia đình bị cáo có công cách mạng, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại điểm h khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

Góp ý