MỤC LỤC
1. Bản án hình sự phúc thẩm số 46/2025/HS-PT ngày 17/03/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với các bị cáo Lâm Chánh H và Nguyễn Đình T do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung hủy án:
Bị cáo Lâm Chánh H có nhân thân xấu, tàng trữ trái phép 4,829 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng, có 1 tình tiết giảm nhẹ khai báo thành khẩn và bị truy tố theo điểm c (khối lượng ma túy tàng trữ từ 0,1 gam đến dưới 05 gam) khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 02 năm tù là chưa tương xứng. Tuy nhiên, bị cáo Nguyễn Đình T đã chết vào ngày 29/12/2024.Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại khoản 7 Điều 157 và khoản 2 Điều 359 Bộ luật Tố tụng hình sự, quyết định hủy một phần bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án đối với bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
2. Bản án hình sự phúc thẩm số 50/2024/HS-PT ngày 30/12/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Lê Tiến H do có kháng cáo của bị cáo Lê Tiến H
Nội dung hủy án:
(i) Lời kH của bị cáo Lê Tiến H tại biên bản bắt người phạm tội quả tang phù hợp với các lời kH, các bản tự kH của chính bị cáo viết trong thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/8/2018 đến ngày 17/8/2018 (từ bút lục 40 đến bút lục 53); Các bản cung sau đó và các bản tự kH từ khi được thay đổi từ tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú thì bị cáo Lê Tiến H đã thay đồi lời kH. Chỉ thừa nhận đi cùng bị cáo Đ mua ma túy, sử dụng ma túy 02 lần, còn một phần ma túy Đ để trên yên xe mô tô. Lúc đó Đ bảo đi một tý, khi Công an đến bắt giữ thì gói ma túy rơi xuống đất cách đó 01m; Có bản cung thì kH, khi Đ đi vào trong xóm có ném gói ma túy còn thừa về phía bị cáo, rơi cách bị cáo và xe mô tô khoảng 2 đến 3m. Như vậy, lời kH của bị cáo là không đồng nhất. Mâu thuẫn với lời kH của bị cáo Đ mà chưa được làm rõ.
(ii) Quá trình điều tra vụ án, ngày 08/8/2018, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, nhưng không có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát nhân dân là vi phạm thủ tục tố tụng, vi phạm Điều 201 của Bộ luật tố tụng hình sự;
(iii) Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Tiến H xuất trình chứng cứ mới là bản gốc Biên bản bồi thường, ghingày 13/7/2020 và một chiếc USB ghi âm toàn bộ cuộc trao đổi liên quan đến việc giải quyết vụ án tại gia đình bị cáo Lê Tiến H. Những tài liệu này có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án; ảnh hưởng trực tiếp đến việc kết tội các bị cáo mà không thể làm rõ tại phiên tòaphúc thẩm.
Do đó, việc cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Bùi Tuấn Đ và Lê Tiến H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 149 của Bộ luật hình sự là chưa đủ căn cứ vững chắc. Bị cáo Bùi Tuấn Đkhông có kháng cáo, không bị kháng nghị nhưng hành vi của các bị cáo có liên quan đến nhau và cầnphải xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án, cần phải hủy toàn bộ bản án sơ thẩm. Có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm; Phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sátvà người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa. Giao hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại vụ án, khắc phục các thiếu sót đã nêu trên và làm rõ chứng cứ mới xuất trình theo đúng quy định của pháp luật. Việc hủy bản án là lỗi khách quan.
3. Bản án hình sự phúc thẩm số 309/2023/HS-PT ngày 12/09/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh thành phố Hồ Chí Minh xét xử về các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Lê Hoàng A do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung hủy án:
Tuy nhiên, qua các chứng cứ, tài liệu thể hiện trong hồ sơ vụ án cho thấy có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm đối với đối tượng Dương Thị Tú N1 đã có hành vi “xào nấu” chuẩn bị ma túy và đưa cho các đối tượng sử dụng là đồng phạm giúp sức cho bị cáo Lê Hoàng A đối với hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 17 và Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Với lập luận tại đoạn [1], [2] và [3] thì Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc Hủy bản án hình sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú để điều tra lại theo quy định điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự.
4. Bản án hình sự phúc thẩm số 35/2024/HS-PT ngày 29/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Trần Thị Á do có kháng cáo của bị cáo Trần Thị Á
Nội dung hủy án:
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thay đổi lời khai, bị cáo khẳng định: Biên bản bắt người phạm tội quả tang bị cáo có giao nộp 01 viên nén màu đỏ và 01 miếng nén màu đỏ là ma túy loại “kẹo”, tinh thể màu trắng là ma túy loại “khây”. Tuy nhiên hai loại ma tuý này là do Phạm Hoàng N kêu bị cáo mua giùm để N và bạn bè của N sử dụng nên bị cáo điện thoại cho đối tượng tên H1 để mua ma tuý của H1. Bị cáo điện thoại cho H1 và Nguyễn Minh T1 đi gặp H1 để lấy ma tuý, T1 đi lấy ma tuý về cất giấu ở nhà trọ của bị cáo, sau đó bị cáo thấy bạn của N chạy ra ngoài thì Công an ập vào khám xét. Công an hỏi bị cáo có cất giấu ma tuý thì giao nộp, do trước đó bị cáo đã thấy nơi T1 cất giấu ma tuý nên bị cáo lấy ma tuý đó giao nộp cho Công an. Lời khai tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang vào ngày 03/9/2023 bị cáo khai không đúng sự thật mà do Điều tra viên Trần Duy C1 viết sẵn nội dung buộc bị cáo phải thừa nhận như thế và bị cáo ký tên trong Biên bản bắt người phạm tội quả tang, sự thật lời khai trong Biên bản bắt người phạm tội quả tang là không đúng; lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra cũng không đúng mà do Điều tra viên Trần Duy C1 ép bị cáo phải thừa nhận ma tuý này là của bị cáo, sự thật ma tuý này là N kêu bị cáo mua giùm, bị cáo chỉ điện thoại cho H1 bán ma tuý thôi, còn T1 là người trực tiếp đi nhận ma tuý đem về nhà trọ của bị cáo cất giấu. Do trước đây bị cáo nhận tội là vì T1, T (anh của T1), N và những người bạn của T1 hứa sẽ lo cho bị cáo chỉ bị xử phạt mức hình phạt 12 tháng tù và hứa lo tiền cho bị cáo nuôi con nên bị cáo mới nhận tội thay. Sau khi Toà án xử phạt bị cáo 18 tháng tù thì phía T1, N và những người bạn của T1 không lo gì cho bị cáo, bị cáo điện thoại thì tất cả đều tắt máy nên tại cấp phúc thẩm bị cáo thay đổi lời khai và trình bày lại toàn bộ sự thật của vụ án. Đối với lời khai của bị cáo trong Biên bản bắt người phạm tội quả tang, trong các Biên bản lời khai và Biên bản hỏi cung bị can không phải do bị cáo tự khai mà do Điều tra viên Trần Duy C1 viết sẵn yêu cầu bị cáo phải học thuộc lòng, thừa nhận, ký tên; Bản tự khai ngày 03/9/2023 là do Điều tra viên Trần Duy C1 đọc cho bị cáo viết, không phải do bị cáo tự khai và không đúng sự thật của vụ án. Ma tuý bị cáo giao nộp cho Công an là đúng nhưng sự thật vụ án không phải như bị cáo trình bày trong quá trình điều tra.
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên toà phúc thẩm mâu thuẫn với lời khai trong quá trình điều tra. Những nội dung thay đổi lời khai như bị cáo đã trình bày ở trên không thể bổ sung tại phiên toà phúc thẩm được nên cần huỷ Bản án sơ thẩm và chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án về cho cấp sơ thẩm điều tra lại vụ án theo thủ tục chung. Do huỷ Bản án sơ thẩm nên không xem xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo.
5. Bản án hình sự phúc thẩm số 312/2023/HS-PT ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Nguyễn Duy Th do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung hủy án:
Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Duy Th và đối tượng Lý Thị Đài Tr đều nhận dạng được nhau và đều xác định Th là người hỏi Tr để mua ma tuý sử dụng và Tr là người giới thiệu cho Huy bán ma tuý cho Th . Theo Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản ghi lời khai, bản tự khai ngày 07/11/2022, Lý Thị Đài Tr khai nhận do điện thoại của Tr hết pin hoặc hết tiền nên Tr đã mượn điện thoại của ông Nguyễn Văn S (quản lý khách sạn) để gọi cho Huy mua ma tuý, nhưng trong hồ sơ không có kết quả xác minh dữ liệu điện thoại của ông S .
Như vậy, có nhiều căn cứ cho thấy Lý Thị Đài Tr là người giúp Nguyễn Duy Th mua ma tuý, có dấu hiệu phạm tội trong vụ án này. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm không điều tra làm rõ mà ban hành quyết định tách hành vi và tài liệu liên quan trong vụ án hình sự đối với Lý Thị Đài Tr để tiếp tục xác minh, xử lý sau là không có căn cứ, không phù hợp với quy định của pháp luật về việc tách vụ án.
6. Bản án hình sự phúc thẩm số 120/2024/HS-PT ngày 31/10/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Hà Văn N do có kháng cáo của bị cáo Hà Văn N
Nội dung sửa án:
Tuy nhiên, xét tổng thể tính chất vụ án, bị cáo đã đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội, việc bị cáo thay đổi lời khai là do tâm lý và nhận thức. Quá trình xét xử phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Đồng thời, khi xét xử phúc thẩm, bị cáo có thêm tài liệu về việc đã tham gia phòng chống tội phạm theo xác nhận của Đoàn Đặc nhiệm PCMT số 2 Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển có Công văn số 1467/MT2 ngày 15/10/2024 và tài liệu kèm theo. Tài liệu này đã được Tòa án xác minh về tính hợp pháp. Vì vậy, cần áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t khoản 1 Điểu 51. Đây là những tình tiết giảm nhẹ mới bị cáo được áp dụng khi xét xử phúc thẩm. Vì vậy, có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; có căn cứ áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt như ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ nghiêm, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, cho bị cáo được sớm trở lại cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội.
7. Bản án hình sự phúc thẩm số 19/2025/HS-PT ngày 26/02/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” đối với bị cáo Hoàng Ngọc L do có kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nội dung sửa án:
Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bà Đàm Thị N cung cấp tài liệu chứng cứ mới để chứng minh nguồn gốc số tiền mua xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter màu xanh lam đen, biển kiểm soát 11B1-340.58 là của bà cho Hoàng Ngọc L từ tiền đền bù đất, việc này có nhiều người biết trong đó có cả trưởng xóm là ông Hoàng Văn H, cụ thể: 01 Quyết định số 3182/QĐ-UBND ngày 25/12/2018 về việc thu hồi đất và đền bù đất; Tại đơn kháng cáo của bà Đàm Thị N có chữ ký của những người làm chứng biết việc bà N được tiền đền bù đất và đưa tiền cho bị cáo L 50.000.000đ để mua chiếc xe máy này gồm ông Hoàng Văn H (chú ruột của bị cáo), bà Đàm Thị L1 (em gái bà Đàm Thị N), ông Hoàng Văn Q, Hoàng Văn T, Hoàng Văn Đ1, Đàm Văn T1 và có xác nhận của chính quyền địa phương. Ngoài ra, bị cáo L là đối tượng sử dụng ma túy, không có việc làm, không có thu nhập, kinh tế phụ thuộc vào bố mẹ. Do vậy, có căn cứ xác định nguồn tiền bị cáo mua xe là của bà Đàm Thị N. Mặt khác, hành vi phạm tội của bị cáo là tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo không được hưởng lợi từ hành vi này.
Vì vậy, căn cứ vào các tình tiết mới do bà N cung cấp, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, trả lại cho bà Đàm Thị N 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter màu xanh lam đen, biển kiểm soát 11B1-340.58, số khung: 1010KY103909, số máy: G3D4E870347, đã qua sử dụng.
8. Bản án hình sự phúc thẩm số 23/2025/HS-PT ngày 06/3/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Lương Văn Sơn do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung sửa án:
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự thì vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Trong vụ án này, bị cáo Lương Văn Sơn đã tự ý sử dụng chiếc xe mô tô YAMHA BKS 36G5-191.08 là tài sản chung của bị cáo và chị Hà Thị Vân (bị cáo đứng tên chủ phương tiện) làm công cụ, phương tiện phạm tội, nên được xác định là vật chứng.
Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa; Sửa một phần về xử lý vật chứng của bản án hình sự sơ thẩm; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước toàn bộ chiếc xe mô tô BKS 36G5-191.08.
9. Bản án hình sự phúc thẩm số 04/2025/HS-PT ngày 10/01/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Lê Văn Đ do có kháng cáo của bị cáo Lê Văn Đ
Nội dung sửa án:
Xét nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Văn Đ, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Lê Văn Đ là người nghiện ma tuý nên đã mua ma tuý về sử dụng; quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; được Cơ quan điều tra Công an huyện Q đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ vì đã tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra Công an huyện Q cung cấp thông tin về đối tượng, số điện thoại, thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, giúp Cơ quan điều tra bắt giữ Ngân Văn P, sinh năm 1992, trú tại xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An, thu giữ 838,11 gam Methamphetamine; gia đình bị cáo có công với cách mạng có ông nội Lê Quang Đ1 được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất; bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân không có tiền án, tiền sự; hoàn cảnh bị cáo khó khăn, vợ đã ly hôn, hai còn còn nhỏ đang sống cùng với Lê Văn Đ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là có phần nghiêm khắc. Vì vậy, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn Đ, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
10. Bản án hình sự phúc thẩm số 03/2025/HS-PT ngày 20/02/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Lò Văn P do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung sửa án:
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 06 năm 03 tháng tù là chưa đúng quy định của Bộ luật hình sự bởi lẽ bị cáo nhiều lần bị Tòa án xét xử: Lần 1 bị xử phạt 04 năm tù về tội: Vận chuyển trái phép chất ma tuý theo Bản án số 24/2003/HSST ngày 03/6/2003 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Lai Châu (nay là huyện C, tỉnh Điện Biên), ngày 31/8/2005 chấp hành xong hình phạt tù, đã được xóa án tích. Lần 2 bị xử phạt 07 năm tù về tội: Mua bán trái phép chất ma tuý theo Bản án số 80/2007/HSST ngày 19/6/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên, ngày 28/4/2012 chấp hành xong hình phạt tù, đã được xóa án tích. Lần 3 bị cáo bị xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo Bản án số 17/2016/HSST ngày 07/9/2016 của Toà án nhân dân thị xã M, tỉnh Điện Biên, tại Bản án này bị cáo đã bị áp dụng tình tiết định khung (tái phạm nguy hiểm) theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 do các bản án năm 2003 và 2007 của bị cáo chưa được xóa án tích, ngày 09/5/2022 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 02/6/2024 bị cáo bị bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định Bản án xét xử bị cáo năm 2016 chưa được xóa án tích nên bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt (Tái phạm nguy hiểm) theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự và bị xử phạt 06 năm 03 tháng tù. Hội đồng xét xử xét thấy bản án xét xử bị cáo năm 2016 theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là tội phạm rất nghiêm trọng, lần phạm tội này bị cáo tàng trữ 0,94 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng là tội phạm nghiêm trọng, các bản án xét xử bị cáo năm 2003 và 2007 đã được xóa án tích hiện chỉ còn bản án 2016 chưa được xóa nên không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự nên lần phạm tội này bị cáo không bị áp dụng tình tiết định khung tái phạm nguy hiểm. Bản án năm 2016 chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo bị áp dụng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tái phạm) theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết định khung (tái phạm nguy hiểm) theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là không đúng quy định của Bộ luật hình sự bất lợi cho bị cáo nên đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm b khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự sửa một phần bản án sơ thẩm số: 01/2024/HS-ST ngày 15 tháng 11 năm 2024 của Tòa án nhân dân thị xã M, tỉnh Điện Biên theo hướng xét xử bị cáo Lò Văn P về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có bố là ông Lò Văn T được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước Hạng nhì nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật hình sự. Việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là đúng quy định của Bộ Luật hình sự.
Bị cáo là người có nhân thân xấu, chưa được xóa án tích nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo bị cáo. Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp Hội đồng xét xử chấp nhận.