Tổng hợp 10 bản án huỷ, sửa về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”

MỤC LỤC

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 73/2024/HS-PT ngày 02/12/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Trần Quang T do có kháng nghị của Viện kiểm sát

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 20/2024/HS-PT ngày 19/12/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với các bị cáo Trương Quốc H, Phạm Quang T do có kháng cáo của bị cáo Trương Quốc H và kháng nghị của Viện kiểm sát

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 38/2024/HS-PT ngày 12/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Nguyễn Văn K do có kháng nghị của Viện kiểm sát

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 61/2024/HS-PT ngày 05/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với các bị cáo Ba Xuân B, Võ Đình C, Nguyễn Phương N và Nguyễn Quang Q do có kháng nghị của Viện kiểm sát

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 355/2023/HS-PT ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Nguyễn Trung N do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trung N

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 69/2024/HS-PT ngày 05/12/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Đỗ Duy C do có kháng cáo của bị cáo Đỗ Duy C

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 242/2024/HS-PT ngày 23/12/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với các bị cáo Hà Văn M và các đồng phạm do có kháng nghị của Viện kiểm sát

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 07/2025/HS-PT ngày 19/02/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Hoà Bình xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với các bị cáo Lê T A và Phạm Quỳnh T do có kháng cáo của các bị cáo Lê T A và Phạm Quỳnh T

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 06/2025/HS-PT ngày 10/01/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với các bị cáo Trần T, Cao H do có kháng cáo của các bị cáo Trần T, Cao H

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 02/2025/HS-PT ngày 06/01/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” đối với các bị cáo Trần Thanh Q và Phạm Quốc D do có kháng cáo của các bị cáo Trần Thanh Q và Phạm Quốc D

 

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 73/2024/HS-PT ngày 02/12/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Trần Quang T do có kháng nghị của Viện kiểm sát

Nội dung hủy án:

Hành vi của bị cáo đã bị Toà án cấp sơ thẩm xử phạt về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm chưa xem xét đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo từ ngày 08/4/2024 đến ngày 10/4/2024 sau khi mua ma túy bị cáo đã cất giữ ma tuý trong người nhưng không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma tuý là có thiếu sót và bỏ lọt hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước kháng nghị hủy bản án hình sự sơ thẩm số 50/2024/HS-ST ngày 16/8/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước để điều tra lại là có căn cứ.

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 20/2024/HS-PT ngày 19/12/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với các bị cáo Trương Quốc H, Phạm Quang T do có kháng cáo của bị cáo Trương Quốc H và kháng nghị của Viện kiểm sát

Nội dung hủy án 

(i) Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm làm rõ, xử lý hành vi của các đối tượng Nguyễn Phan Thành T4, Nguyễn Thành C1, Nguyễn Lâm Phi T2, Võ Ngọc T3, Nguyễn Phan Hữu T6, Nguyễn Thanh T5, Phùng Ngọc H2 đồng phạm với Trương Quốc H, Phạm Quang T về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, nhưng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi vẫn giữ nguyên cáo trạng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xét xử đối với các bị cáo Trương Quốc H, Phạm Quang T là đúng quy định tại Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự về giới hạn của việc xét xử và kiến nghị cấp phúc thẩm xem xét. Việc hủy bản án sơ thẩm là không có lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm.

(ii) Bị cáo H khai nhận số ma túy bị cáo H cất giấu trong túi quần là để tránh bị ướt, khi nào cả nhóm sử dụng hết ma túy trên bàn thì bị cáo H sẽ lấy ra để mọi người sử dụng tiếp. Lời khai này của bị cáo H phù hợp với việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy của các bị cáo vẫn đang diễn ra, số ma túy trong túi quần của H cũng tương đương với số lượng ma túy các bị cáo đang sử dụng và các bị cáo H, T xác định nhóm các bị cáo có thể sử dụng hết số ma túy này trong một lần tổ chức sử dụng nên không đủ căn cứ xác định bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vì vậy, chấp nhận một phần kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về nội dung cấp sơ thẩm có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội; riêng nội dung kháng nghị về bỏ lọt tội phạm đối với hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của bị cáo Trương Quốc H không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội nên cần hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. Do hủy bản án sơ thẩm nên không xem xét kháng cáo của bị cáo Trương Quốc H.

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 38/2024/HS-PT ngày 12/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Nguyễn Văn K do có kháng nghị của Viện kiểm sát

Nội dung hủy án 

(i) Theo Bản Cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 27/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủ Thừa đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Nhưng án sơ thẩm xét xử bị cáo bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Riêng hành vi tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủ Thừa truy tố nhưng tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Viện kiểm sát rút quyết định truy tố, án sơ thẩm nhận định bị cáo không phạm tội nhưng lại không tuyên trong quyết định của bản án cũng như trong biên bản nghị án Hội đồng xét xử không đề cập đến nội dung này là không đúng theo quy đinh tại Điều 325 và 326 Bộ luật Tố tụng vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử, cấp khúc thẩm không khắc phục được.

(ii) Về vi phạm thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố: Kháng nghị có nêu nội dung: “Sau khi vào phòng số 06, tôi kêu người nam quản lý mua giùm tôi 03 viên kẹo (ma tuý loại MDMA) và 02 chấm khay (Ketamine), tôi hỏi giá thì người nam quản lý nói là 2.700.000 đồng” nhưng khi khởi tố điều tra vụ án, Cơ quan điều tra Công an huyện Thủ Thừa không điều tra làm rõ, cho nhận dạng, đối chất, truy xét hành vi người nam thanh niên đang quản lý quán Karaoke bán ma tuý cho K để xử lý theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra và VKS cấp sơ thẩm chưa thực hiện việc nhận dạng, đối chất người có liên quan theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự tại cấp phúc thẩm không khắc phục được.

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 61/2024/HS-PT ngày 05/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với các bị cáo Ba Xuân B, Võ Đình C, Nguyễn Phương N và Nguyễn Quang Q do có kháng nghị của Viện kiểm sát

Nội dung hủy án 

(i) Đối với bị cáo Ba Xuân B: Hồ sơ vụ án đã thu thập đầy đủ tài liệu thể hiện tiền sự của Ba Xuân B. Tuy nhiên, trích lục tiền án, tiền sự của Ba Xuân B lập ngày 03/3/2023 lại thể hiện Ba Xuân B không có tiền án, tiền sự trong tàng thư, cơ sở dữ liệu do Phòng hồ sơ nghiệp vụ quản lý.

(ii) Đối với bị cáo Võ Đình C: Lý lịch bị can lập ngày 02/10/2023 thì chỉ thể hiện năm 2012 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ (Nay là thị xã Đ) áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, không thể hiện thông tin ngày 06/8/2023 bị Công an thị xã Đ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” bằng hình thức phạt tiền, số tiền 8.000.000đồng.

(iii) Đối với bị cáo Nguyễn Phương N: Tại Lý lịch bị can lập ngày 02/10/2023 thể hiện ngày 26/4/1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tuyên phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội gây rối trật tự công cộng. Tại Trích lục tiền án tiền sự lập ngày 16/10/2023 thể hiện “Ngày 17/6/1994, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử án treo 6 tháng theo bản án số 32/HSPT”, cấp sơ thẩm chỉ thu thập Bản án hình sự phúc thẩm số 24/HSPT ngày 22/4/1999, tuy nhiên bị cáo N không kháng cáo nên bản án phúc thẩm không có nội dung quyết định hình phạt đối với bị cáo N, do vậy bị cáo N phải chấp hành bản án sơ thẩm nhưng cấp sơ thẩm không thu thập bản án sơ thẩm. Ngoài ra, cấp sơ thẩm chưa làm rõ bị cáo bị xử phạt về tội gây rối trật tự công cộng vào năm nào? (Năm 1994 theo bản án số 32/HSPT hay năm 1999 theo bản án số 24/HSPT).

(iv) Ngoài ra, Trích lục tiền án, tiền sự không thể hiện các lần bị xử lý hành chính khác của bị cáo N như lý lịch bị can và tài liệu trong hồ sơ đã thu thập được. Lý lịch bị can không thể hiện: “Ngày 15/8/2022 bị Công an phường N, thị xã Đ xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy”.

(v) Đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Nguyễn Phương N:

Theo đơn yêu cầu giảm nhẹ mức án cho con trai Nguyễn Phương N của bà Nguyễn Thị Đề Á và tài liệu kèm theo thể hiện: Bà Á có cha và mẹ là ông Nguyễn T1 và bà Lê Thị C3 là người có công với Cách mạng nhưng Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ chưa yêu cầu bà Á xác nhận quan hệ thân nhân giữa ông Nguyễn T1 và bà Lê Thị C3 đối với bị cáo Nguyễn Phương N để xem xét tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo là thiếu sót.

(vi) Xét thấy có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị số 352/QĐ-VKS ngày 09/4/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2024/HS-ST ngày 11/3/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi để điều tra lại theo thủ tục chung.

Đối với các thiếu sót về nhân thân, lý lịch, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo chưa được xác minh, điều tra làm rõ như nhận định tại mục [1], mục [3] của bản án này, cấp sơ thẩm cần khắc phục trong quá trình điều tra lại.

(vii) Ngày 05/12/2023, Tòa án cấp sơ thẩm đã Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung để làm rõ hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Ba Xuân B nhưng không được Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đức Phổ thực hiện mà giữ nguyên Cáo trạng truy tố. Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đức Phổ nhận định đây là số ma túy còn lại sau khi sử dụng và các bị cáo có ý định tiếp tục sử dụng. Tuy nhiên, nhận định này là không có cơ sở.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2024/HS-ST ngày 11/3/2024, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đức Phổ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đ tiếp tục điều tra, khởi tố đối với Ba Xuân B. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2024/HS-ST ngày 11/3/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy không có lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm.

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 355/2023/HS-PT ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Nguyễn Trung N do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trung N

Nội dung hủy án 

(i) Do đó, đối với nhóm đối tượng cùng nhau tổ chức sử dụng ma túy có bàn bạc cùng nhau tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và cả nhóm đồng ý. Bị cáo H, N1 và T2 đều khai nhận các bị cáo đã nhiều lần cùng nhau và cùng với các đối tượng chưa bị khởi tố, truy tố trong vụ án này tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ít nhất 4 lần. Việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được đưa ra bàn cùng nhau trên nhóm “Hội Zảy Đầm”, số tiền chi phí tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy như tiền thuê nhà, tiền mua ma túy... sẽ có người trong nhóm ứng ra trước, sau đó về sẽ chia đều cho tất cả các thành viên sử dụng trái phép chất ma túy và điều này tất cả các thành viên đều đồng ý và đã thực hiện nhiều lần trước ngày 14/03/2022. Việc bị cáo H đứng ra thuê căn hộ và mua ma túy sử dụng, và thậm chí là ma túy để sử dụng vào ngày 14/3/2022 được các thành viên trong nhóm đưa ra bàn bạc kỹ lưỡng, thống nhất là mua ma túy loại nào, khối lượng bao nhiêu, là chỉ làm thay theo sự thống nhất của cả nhóm và các thành viên trong nhóm có trách nhiệm trả lại tiền sau. Ngoài lời khai của các bị cáo H, N5 và T2 thì điều này còn thể hiện rõ ràng trong các tin nhắn trao đổi giữa các thành viên trong nhóm “Hội Zảy Đầm”, được trích xuất lưu vào hồ sơ vụ án. Như vậy ngoài các bị cáo H, N5 và T2 bị truy tố, xét xử trong vụ án này, các đối tượng còn lại D, T3, T4, Chúc A1, Nguyễn Thị Phương N2 (bạn gái T4), Nguyễn Linh H1 (bạn gái T2) cũng có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Cấp sơ thẩm chưa khởi tố điều tra, truy tố xét xử đối với những đối tượng này là bỏ lọt tội phạm. Riêng các đối tượng Nguyễn Thị Phương N2 và Nguyễn Linh H1 có lời khai mâu thuẫn với nhau, mâu thuẫn với các tin nhắn trao đổi trong nhóm “Hội Zẩy Đầm”, chưa được Cơ quan điều tra xác minh, làm rõ có hay không hành vi tham gia hùn tiền để trả tiền chi phí tổ chức sử dụng ma túy của ngày 14/3/2022.

(ii) Đối với đối tượng “Vinh Dâu”, đã xác định được nhân thân, lai lịch nhưng đã bỏ đi khỏi nơi cư trú. Tuy nhiên cơ quan điều tra công an Q1 ra thông báo truy tìm là không phù hợp. Hành vi của “Vinh Dâu” đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nên đối tượng đã bỏ trốn thì cần khởi tố bị can và ra quyết định truy nã.

(iii) Đối với các đối tượng Trần Kiến A2 và Nguyễn Thị Ngọc Á (sống chung như vợ chồng với A2), A2 là người trực tiếp được bị cáo N và bị cáo H liên lạc thuê nhà sử dụng ma túy và mua dùm ma túy cho các đối tượng thuê sử dụng. Nguyễn Thị Ngọc Á, sống chung trong căn hộ cho thuê sử dụng ma túy và là người đứng tên trên hợp đồng thuê nhà. Ngoài ra Á còn khai Á là bạn của N và cho N mượn nhà để tổ chức sinh nhật nhưng Ngôn xác định chỉ liên lạc với A2, không biết Á. Ngoài ra, thời điểm bắt giữ, Á còn có hành vi đưa đối tượng Trần Kim N4 đến công an trình báo gian dối, tự xưng là Á và thừa nhận hành vi. Tuy nhiên sau này N4 khai là Á là người nhờ mình ra cơ quan công an khai báo gian dối và biết việc Á cùng A2 tổ chức cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng không rõ lắm. Bị cáo S khai nhận có đến giúp việc nhà cho A2, nhiệm vụ dẫn khách lên phòng, dọn dẹp khi khách ra về, biết A2 và Á sống chung như vợ chồng, biết A2 là người cho thuê phòng để sử dụng ma túy và cũng là người cung cấp ma túy. Do A2 hiện đã đỏ đi khỏi nơi cư trú. Tuy nhiên Cơ quan điều tra Công an Q1 ra thông báo truy tìm là không đúng quy định pháp luật. Hành vi của A2 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, nên đối tượng đã bỏ trốn thì cần khởi tố bị can và ra quyết định truy nã. Đồng thời đấu tranh làm rõ hành vi của Á, nếu đủ dấu hiệu thì khởi tố để điều tra toàn diện vụ án.

(iv) Cơ quan điều tra Công an quận Q1 cần tiếp tục điều tra, đấu tranh làm rõ hành vi của đối tượng Phạm Quang T5, là người nhận tiền bán ma túy từ bị cáo H và chuyển tiền sang đối tượng Trần Kiến A2, vì đã xác định được nhân thân, địa chỉ, để tránh bỏ lọt tội phạm.

Như vậy, việc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4: không xem xét xử lý hình sự đối với Trần Kiến A2, “Vinh Dâu”, D, T3, T4, Chúc A1 có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy bỏ lọt tội phạm; Nguyễn Thị Phương N2 và Nguyễn Linh H1 chưa điều tra, làm rõ có đồng phạm về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” hay không?; Không khởi tố và truy nã đối tượng Trần Kiến A2 là không đúng quy định; Chưa điều tra, làm rõ vai trò của đối tượng Nguyễn Thị Ngọc Á là có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội; Cần điều tra, đấu tranh để làm rõ hành vi của đối tượng Phạm Quang T5. Do cấp sơ thẩm điều tra chưa đầy đủ, chưa toàn diện và tại phiên tòa phúc thẩm không có khả năng làm rõ, không thể khắc phục được những vấn đề như đã phân tích ở trên, nên cần thiết phải hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.

Do bản án bị hủy nên kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trung N hội đồng xét xử không xem xét. Tuy nhiên, xét thấy trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Trung N tham gia đồng phạm với vai trò không đáng kể so với các bị cáo khác, và với những đối tượng khác chưa bị khởi tố điều tra, bị cáo N chỉ liên lạc với A2 dùm cho H, đồng thời không sử dụng ma túy, không hưởng lợi từ việc liên lạc với A2 dùm H. Do đó khi cấp sơ thẩm xét xử vụ án cần lưu ý tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, vai trò tham gia đồng phạm để áp dụng hình phạt đối với N cho tương xứng.

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 69/2024/HS-PT ngày 05/12/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Đỗ Duy C do có kháng cáo của bị cáo Đỗ Duy C

Nội dung sửa án 

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đỗ Duy C, HĐXX phúc thẩm xét thấy: Căn cứ tính chất mức độ và hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của từng bị cáo trong vụ án đã được cấp sơ thẩm xem xét đánh giá để xác định tính chất mức độ của từng bị cáo trong vụ án là có căn cứ. Mức hình phạt cấp sơ thẩm đã tuyên đối với các bị cáo là tương đối phù hợp với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Đỗ Duy C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo có gia đình hoàn cảnh rất khó khăn, bố bị cáo chết sớm, bị cáo là lao động chính trong gia đình và đang phải chăm sóc mẹ già thường xuyên đau ốm và nuôi con nhỏ. Tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo xuất trình đơn có xác nhận của chính quyền địa phương thể hiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bố mất sớm, mẹ đẻ bệnh tật, vợ bỏ nhà ra đi để lại con cho bà nội chăm sóc và bị cáo có thời gian tham gia công tác Đoàn tại địa phương. Ngoài ra gia đình còn nộp Giấy xác nhận của phòng nội vụ xác nhận ông nội bị cáo được tặng Huân chương kháng chiến hạng II; nộp biên lai thu tiền đã thi hành xong phần án phí sơ thẩm sau khi xét xử sơ thẩm, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Ngoài ra, đây là vụ án đồng phạm giản đơn, Trần Quốc T là đối tượng khởi xướng, rủ rê các đối tượng khác sử dụng ma túy nên giữ vai trò đầu vụ trong vụ án. Bị cáo Trần Cao Đ và Đỗ Duy C được T rủ cùng sử dụng ma túy, Đ đã thông tin cho Trần Văn P, Hoàng Văn H cùng sử dụng ma tuý và P và H cũng đồng thuận tham gia. Đỗ Duy C là người thực hiện hành vi mà trước đó đã được tất cả các đối tượng thỏa thuận, thống nhất trên xe nên C và Đ có vai trò tương đương. Tuy nhiên C thực hiện hành vi có phần tích cực hơn so với Đ. Các bị cáo khác trong vụ án đều có vị trí, vai trò không đáng kể. Do vậy cần áp dụng Điều 17; Điều 58 BLHS để áp dụng mức hình phạt đối với các bị cáo.

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 242/2024/HS-PT ngày 23/12/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với các bị cáo Hà Văn M và các đồng phạm do có kháng nghị của Viện kiểm sát

Nội dung sửa án 

Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết: thành khẩn khai báo; đầu thú - là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, đồng thời đánh giá vai trò của các bị cáo trong vụ án để quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Tuy nhiên, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyêm đối với các bị cáo có phần nghiêm khắc, bởi lẽ: Các bị cáo đều có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có nhiều khó khăn, nhận thức pháp luật hạn chế, lượng ma túy các bị cáo mua để sử dụng không nhiều. Do đó, có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Hà Văn M và Phạm Bá N1, Phạm Bá T2 như nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quan Hóa, và quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tại phiên tòa phúc thẩm.

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 07/2025/HS-PT ngày 19/02/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Hoà Bình xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với các bị cáo Lê T A và Phạm Quỳnh T do có kháng cáo của các bị cáo Lê T A và Phạm Quỳnh T

Nội dung sửa án 

(i) Đối với bị cáo Lê T A: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn với hành vi đã thực hiện; Đã tích cực giúp đỡ cơ quan điều tra phát hiện, bắt giữ một vụ án ma túy; Trong thời gian huấn luyện tại Trung tâm huấn luyện nghiệp vụ do công an tỉnh Hòa Bình tổ chức có thành tích nổi trội, được Giám đốc công an tỉnh tặng Giấy khen; gia đình bị cáo có ông ngoại là Phạm Tuấn Đăng được nhà nước tặng thưởng Huân cH kháng chiến hạng 3. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đã được cấp sơ thẩm áp dụng. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xuất trình Phiếu thu ngày 23/12/2024, của Mặt trận tổ quốc thị trấn Mãn Đức, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình, do bị cáo Lê T A nộp 2.000.000đ cho quỹ Vì người nghèo. Đây là tình tiết mới, thể hiện tấm lòng nhân ái của bị cáo chung tay giúp đỡ người nghèo theo phong trào của Trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam đã phát động. Có căn cứ để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

(ii) Đối với bị cáo Phạm Quỳnh Anh cũng đã được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là thành khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Khi phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi. Có ông ngoại là Ngô Văn Địch là người có công với cách mạng, được tặng thưởng Bằng khen trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Mức hình phạt 06 năm tù mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là có phần nghiêm khắc. Kể từ ngày 30/11/2024 luật Tư pháp người chưa thành niên được Quốc hội thông qua, việc áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội cần cân nhắc trên tinh thần chuyển hướng. Do đó Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo, tạođiều kiện cho bị cáo sớm có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 06/2025/HS-PT ngày 10/01/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với các bị cáo Trần T, Cao H do có kháng cáo của các bị cáo Trần T, Cao H

Nội dung sửa án 

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Cao H, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Bùi V là mẹ ruột bị cáo Cao H cung cấp đơn xin xác nhận nhân thân hạnh kiểm của bị cáo chưa tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, nhân thân tốt và văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo. Xét thấy cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là T khẩn khai báo. Đồng thời xử phạt bị cáo H về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cùng các bị cáo T, H, S là có căn cứ đúng pháp luật. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo H là nhân viên của quán Karaoke KC, bị cáo chỉ phục vụ thực hiện theo việc yêu cầu của khách đến quán; bị cáo H không phải là người chủ động bàn bạc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với các bị cáo T, S, H ngay từ đầu. Chỉ khi các bị cáo T, S, H đến quán Karaoke KC thì bị cáo H được yêu cầu phục vụ, do vậy xét vai trò của bị cáo là thứ yếu. Nên Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo H phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể, nên có căn cứ áp dụng cho bị cáo H khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự chuyển sang khung hình phạt liền kề đối với bị cáo. Trong vụ án này cấp sơ thẩm nhận định và tuyên mức hình phạt của bị cáo H và bị cáo S như nhau là chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo. Bởi lẽ bị cáo S với vai trò là người khởi xướng bàn bạc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với các bị cáo H, T ngay từ đầu trước khi vào quán Karaoke KC và cũng chính bị cáo S là người kêu bị cáo H cất ma túy còn lại, nên mức độ phạm tội của bị cáo S phải cao hơn bị cáo H mới đúng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo.

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 02/2025/HS-PT ngày 06/01/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” đối với các bị cáo Trần Thanh Q và Phạm Quốc D do có kháng cáo của các bị cáo Trần Thanh Q và Phạm Quốc D

Nội dung sửa án 

(i) Đối với bị cáo Trần Thanh Q: Trong vụ án này bị cáo Q giữ vai trò đồng phạm, thấp hơn so với bị cáo T và bị cáo V2; khi nghe bị cáo V2 hỏi thì Q đề xuất số lượng ma túy cần mua về để sử dụng; nhưng bị cáo không tham gia góp tiền mua ma túy, hoạt động liên hệ mua ma túy và trả tiền mua ma túy là do bị cáo V2 và T thực hiện; khi sử dụng ma túy tại phòng 102 của căn hộ, bị cáo Q chỉ có hành vi sử dụng thẻ ngân hàng để nghiền mịn ma túy ketamine và phân chia thành nhiều đường để mọi người sử dụng,bản thân Q sử dụng 02 đường ma túy loại Ketamin, 01 ly ma túy loại nước vui, đối tượng Lê Thị Thảo V1 (17 tuổi 08 tháng 14 ngày) là do người khác rủ tới; Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 7 năm 6 tháng tù bằng với bị cáo V2 là có phần nghiêm khắc; xét bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội, là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò thứ yếu không đáng kể; hoàn cảnh gia đình khó khăn là lao động chính có 02 con chưa thành niên, cùng với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được Tòa án cấp sơ thẩm ghi nhận như: Khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, là thành viên câu lạc bộ thiện nguyện Hoa Sen và có tham gia đóng góp ủng hộ quỹ phòng chống dịch Covid 19 của thành phố Hà Nội; trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm gia đình bị cáo cung cấp thêm tài liệu thể hiện cha vợ bị cáo là ông Hoàng Văn S là quân nhân, cựu chiến binh, thương binh hạng 2/4 tỷ lệ thương tật 61% có đóng góp trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã tác động gia đình nộp 200.000 đồng tiền án phí HSST, bản thân bị cáo bị bệnh viêm gan virus B mạn thường xuyên phải điều trị ngoại trú; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS cần áp dụng thêm cho bị cáo; do đó HĐXX thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt giúp bị cáo an tâm cải tạo tốt sớm được trở về với gia đình và xã hội.

(ii) Đối với bị cáo Phạm Quốc D: Trong vụ án này bị cáo D không tham gia vào việc bàn bạc mua ma túy, không góp tiền mua ma túy, không biết không tham gia vào hoạt động liên hệ mua ma túy; các đối tượng có liên quan bắt đầu sử dụng ma túy từ lúc 1 giờ 30 phút sáng ngày 4/3/2024 lúc này D đang ngủ, đến 5 giờ sáng cùng ngàyDương thức dậy thấy mọi người đang sử dụng ma túy D cũng vào lấy thẻ nhựa xào ma túy loại Ketamin để mọi người cùng sử dụng và bị cáo cũng sử dụng 04 đường ma túy loại Ketamin, đối tượng Lê Thị Thảo V1 (17 tuổi 08 tháng 14 ngày) là do người khác rủ tới, khi bị cáo xào ma túy Ketamine để mọi người sử dụng thì lúc này không có V1, V1 không sử dụng ma túy do bị cáo xào; xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là thấp nhất trong vụ án, bị cáo chỉ là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò thứ yếu không đáng kể,Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 7 năm tù là nghiêm khắc; mặt khác Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét, áp dụng các tình tiết thuộc về nhân thân và điều kiện hoàn cảnh gia đình của bị cáo như: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, lần đầu vi phạm pháp luật, là lao động chính, con duy nhất trong gia đình, cha chết từ khi bị cáo còn nhỏ; tại phiên tòa bị cáo trình bày có chung sống như vợ chồng với bà Đỗ Thị Lan A và có 01 con sinh ngày 02/10/2024 nhưng chưa đăng ký kết hôn (kèm giấy khai sinh); sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo tác động gia đình nộp 200.000 đồng tiền án phí HSST; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS cần áp dụng bổ sung cho bị cáo. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt giúp bị cáo an tâm cải tạo tốt sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Góp ý