MỤC LỤC
1. Quyết định giám đốc thẩm số 36/2024/HS-GĐT ngày 11/4/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hình sự về các tội “Cướp tài sản”, “Cưỡng đoạt tài sản” và “Bắt, giữ người trái pháp luật” đối với các bị cáo do có kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao
Nội dung hủy án:
(i) Trong vụ án này, hành vi của cả 03 bị cáo Đoàn Duy H, Phan Xuân Q và Vương Thúc H3 chỉ phạm 02 tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” và “Cướp tài sản” theo các Điều 169 và Điều 168 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đoàn Duy H phạm tội: “Cướp tài sản”, “Cưỡng đoạt tài sản”, “Bắt, giữ người trái pháp luật”; bị cáo Phan Xuân Q phạm tội: “Cưỡng đoạt tài sản”, “Bắt, giữ người trái pháp luật”; bị cáo Vương Thúc H3 phạm tội: “Cướp tài sản”, “Cưỡng đoạt tài sản” là chưa đúng tội danh của các bị cáo đã gây ra. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đồng thời cho rằng bị cáo chỉ phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”, bị cáo không phạm tội “Cướp tài sản” và tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo H, giữ nguyên án sơ thẩm cũng không đúng pháp luật.
(ii) Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng “cấp sơ thẩm và phúc thẩm tuyên bố Đoàn Duy H, Phan Xuân Q và Vương Thúc H3 phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 2015 sử đổi năm 2017 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật” là chưa phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo. Đối với nội dung kháng nghị: cấp sơ thẩm tách hành vi của Đoàn Duy H, Phan Xuân Q và Vương Thúc H3 và C ra nhiều giai đoạn, từ đó xử lý hành vi của các bị cáo về 02 tội “Cướp tài sản” và “Cưỡng đoạt tài sản” là không đúng tội danh, dẫn đến mức án tuyên không phù hợp, gây bất lợi cho các bị cáo khi lượng hình và tổng hợp hình phạt. Xét nội dung kháng nghị này là phù hợp quy định của pháp luật nên chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Quyết định giám đốc thẩm số 17/2022/HS-GĐT ngày 14/02/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hình sự về các tội “Cướp tài sản” và “Làm nhục người khác” đối với bị cáo Trần Phước Nh do có kháng nghị của Chánh án TAND cấp cao
Nội dung hủy án:
(i) Trong vụ án này, chiếc xe mô tô biển số 60C1-046.61 nhãn hiệu SYM Attila, số khung 016143, số máy 016143 bị cáo Nhật sử dụng, là phương tiện dùng vào việc phạm tội. Chiếc xe mô tô này do chị Phan Ngọc Minh C (vợ bị cáo Nhật) mua vào ngày 29/9/2019 tại Cửa hàng bán xe máy Như Ý với giá 10.500.000 đồng; vẫn đứng tên chủ sử dụng cũ là chị Trần Thị Hương Tr và chưa sang tên cho chị C. Theo quy định tại Điều 33 của Luật Hôn nhân và gia đình thì chiếc xe này là tài sản chung của bị cáo Nh và chị C. Tòa án cấp phúc thẩm đã tịch thu giá trị 1/2 chiếc xe mô tô biển số 60C1- 046.61 để sung công quỹ nhà nước, trả lại giá trị 1/2 chiếc xe mô tô biển số 60C1-046.61 cho chị C. Tuy nhiên, theo nội dung văn bản số 259/CCTHADS ngày 24/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thể hiện, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa không thể thực hiện được việc trả lại ½ giá trị tài sản vật chứng theo như quyết định tại bản án hình sự phúc thẩm do các quy định pháp luật liên quan đến việc tịch thu, sung công quỹ nhà nước.
(ii) Trong khi đó, việc phạm tội của bị cáo vào ngày 07/11/2019 của Trần Phước Nh mang tính chất bộc phát, không phải lên kế hoạch chuẩn bị từ trước. Chiếc xe mô tô bị thu giữ là phương tiện phục vụ sinh hoạt thiết yếu, lao động hàng ngày đối với chị Phan Ngọc Minh C và có giá trị không lớn. Do vậy, việc Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa trả lại chiếc xe mô tô cho chị Phan Thị Minh C là phù hợp với chính sách nhân đạo của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự trong việc bảo vệ quyền về tài sản của cá nhân.
3. Quyết định giám đốc thẩm số 03/2019/HS-GĐT ngày 21/01/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án hình sự về các tội “Cướp tài sản” và “Trộm cắp tài sản” đối với các bị cáo do có kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao
Nội dung hủy án:
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nhận thấy: Tòa án hai cấp xét xử các bị cáo Mai Kim L, Lê Xuân Đ, Trương Văn T, Nguyễn Xuân Tùng D, Phan Thanh P, Đoàn Dương Ph, Nguyễn Thanh T1, Nguyễn Đình C về các tội danh "Cướp tài sản" và tội "Trộm cắp tài sản" là có căn cứ. Tuy nhiên, về hình phạt thì đánh giá chưa đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo, chưa xem xét nhân thân đầy đủ, áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999, để tuyên phạt mức án dưới khung hình phạt không đúng quy định của pháp luật. Cụ thể như sau:
(i) Đối với Mai Kim L: Bị cáo tham gia 05 vụ (01 vụ trộm cắp tài sản, 04 vụ cướp tài sản) vai trò đầu vụ cả hai tội danh “Cưóp tài sản” và “Trộm cắp tài sản”, bị cáo cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm, chủ động tìm công cụ phạm tội, lôi kéo, xúi giục người khác cùng phạm tội và phân chia lại tiền do phạm tội mà có cho đồng bọn. Bị cáo phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần, phải chịu tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999. Nguyên tắc xử lý quy định tại Điều 3 Bộ luật Hình sự năm 1999: "Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy...", nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo dưới khung cả hai tội danh là không đúng pháp luật.
(ii) Đối với Lê Xuân Đ: Bị cáo tham gia 04 vụ (01 vụ trộm cắp tài sản, 03 vụ Cướp tài sản) là người thực hành tích cực nhất trong nhóm. Bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” với 02 tình tiết định khung; có 01 tiền án chưa được xóa; phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” đối với cả hai tội danh và chịu tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự 1999 đối với tội "Cướp tài sản". Tòa sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 07 năm tù ở mức hình phạt đối với tội “Cướp tài sản” là thiếu nghiêm khắc. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử dưới khung đối với tội "Trộm cắp tài sản" (09 tháng tù) là không đúng.
(iii) Đối với bị cáo Trương Văn T thực hiện 03 vụ (01 vụ Trộm cắp tài sản, 02 vụ Cướp tài sản) và Nguyễn Xuân Tùng D thực hiện 02 vụ Cướp tài sản: Cả hai bị cáo đều có vai trò người thực hành tích cực. Trong đó, bị cáo D có nhân thân xấu, bị cáo T phạm nhiều tội, cả hai bị cáo đều phải chịu tình tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần" quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội"Cướp tài sản", nhưng Tòa án hai cấp đều áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt dưới khung đối với hai bị cáo là không đúng; về tội Trộm cắp tài sản, Tòa án hai cấp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 1999, xử dưới khung đối với bị cáo T là không nghiêm.
(iv) Đối với bị cáo Phan Thanh P: Tham gia 01 vụ Cướp tài sản, vai trò là người thực hành, chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, nhân thân xấu (từng bị xử phạt tù cho hưởng án treo, bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản), nhưng không ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội đã bỏ trốn gây khó khăn cho Cơ quan điều tra. Trong thời gian trốn, bị cáo tiếp tục phạm tội "Cưóp tài sản", bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 08 năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2017/HSST ngày 15/3/2017. Hiện đang chấp hành bản án này. Tòa án hai cấp áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử bị cáo dưới khung là không đúng.
(v) Đối với bị cáo Đoàn Dương Ph: Tham gia 01 vụ Cướp tài sản ngày 02/12/2015, trực tiếp cầm công cụ hỗ trợ là cây roi điện uy hiếp ông Nguyễn Duy T3 để cho đồng bọn chiếm đoạt tài sản. Bị cáo là người thực hành nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo vai trò người giúp sức là không đúng với hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự Ị999. Do đó,Tòa án hai cấp áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử bị cáo dưới khung là không có căn cứ.
(vi) Đối với bị cáo Nguyễn Thanh T1: Tham gia 01 vụ cướp tài sản, vai trò là người thực hành, ngày 14/12/2015, bị cáo đã dùng hung khí nguy hiểm (dao rựa) chém anh Trần Văn Ph thương tích 05%. Sau khi gây án, bị cáo còn phi tang hung khí để che giấu tội phạm. Thương tích của anh Ph mà bị cáo đã gây ra phải xác định là hậu quả của tội phạm, nhưng bị cáo không có ý thức khắc phục, không ăn năn hối cải. BỊ cáo chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999, Tòa án sơ thẩm áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 1999 xử phạt bị cáo 03 năm 06 tháng tù là không có căn cứ.
(vii) Đối với bị cáo Nguyễn Đình C: Sau khi mua lại máng ngân do Mai Kim L cướp được vào ngày 02/12/2015, tới ngày 04/12/2015 Nguyễn Đình C trực tiếp dẫn đường, chỉ điểm cho Mai Kim L cùng đồng bọn thực hiện vụ cướp tại lán trại của ông Võ Văn L3. Bị cáo có vai trò giúp sức tích cực, phạm tội thuộc trường hợpp có tổ chức, Tòa sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 năm tù đã là nhẹ, Tòa án phúc thẩm sửa án sơ thẩm cho bị cáo hưởng án treo là trái với hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: "2. Không cho hưởng án treo nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Người phạm tội thuộc đối tượng cần phải nghiêm trị quy định tại khoản 2 Điều 3 của Bộ luật hình sự bao gồm: ...có tổ chức...".
4. Quyết định giám đốc thẩm số 31/2019/HS-GĐT ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án hình sự về các tội “Cướp tài sản” và “Cố ý gây thương tích” đối với các bị cáo do có kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao
Nội dung hủy án:
(i) Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T1 xác định: “Việc tham gia vụ cướp do các đối tượng nhận thức thấp về pháp luật, chỉ nghĩ hành vi như vậy là đòi tiền phục vụ giùm cho bạn gái. Hành vi tham gia của các bị can có tính chất bộc phát, không có tính toán chuẩn bị từ trước. Việc chiếm đoạt tiền mục đích chính không phải là để phục vụ tiêu xài cá nhân”. Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T1 không phân tích, chứng minh được các bị cáo có sự câu kết chặt chẽ, bàn bạc thống nhất và phân công vai trò của từng bị cáo khi thực hiện tội phạm như thế nào, nhưng lại truy tố hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp phạm tội “Có tổ chức” và Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: “Khi phạm tội các bị cáo đã có sự câu kết chặt chẽ, phân công nhiệm vụ cho nhau...”, từ đó xét xử các bị cáo về tội “Cướp tài sản” với tình tiết định khung “Có tổ chức” theo điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 là chưa đủ căn cứ vững chắc.
(ii) Sau khi cùng nhau dùng hung khí nguy hiểm đánh Trầm Thế V, buộc anh V đưa 400.000đ, T tiếp tục bảo Lê Văn D1 khống chế, bắt ép anh V lên xe mô tô, L ngồi sau giữ và D1 điều khiển xe mô tô đưa đến phía sau Trung tâm đào tạo lái xe tỉnh Quảng Nam, không cho anh V vượt ra ngoài sự kiểm soát của các bị cáo. Hành vi trên của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền tự do thân thể của anh V, có dấu hiệu phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”, quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 1999 (Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 2015). Vì vậy, cần phải điều tra làm rõ hành vi này để giải quyết toàn diện vụ án.
(iii) Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, phạm vào khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, có khung hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm tù nên cần phải xử phạt các bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc mới đủ tác dụng cải tạo giáo dục và răn đe phòng ngừa chung. Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999 và chỉ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (tự nguyện bồi thường thiệt hại) và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt các bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là đánh giá chưa đúng vai trò, tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của các bị cáo; mức hình phạt trên là chưa nghiêm, không đảm bảo tác dụng cải tạo giáo dục và răn đe phòng ngừa chung.
(iv) Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định bị cáo Lê Văn D1 còn bị xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2018/HS-ST ngày 04/7/2018 của Tòa án nhân dân thành phố T1, tỉnh Quảng Nam và đã có hiệu lực pháp luật, nhưng liên quan đến các bị cáo khác có kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, nên không tổng hợp hình phạt của bản án nêu, nhưng không tuyên hủy phần tổng hợp hình phạt của bản án sơ thẩm là không đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, Lê Văn D1 bị bắt tạm giam ngày 18/8/2017 trong vụ án “Cố ý gây thương tích”, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định hình phạt đối với tội “Cướp tài sản” và tổng hợp hình phạt theo bản án hình sự sơ thẩm nêu trên, tuyên thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/8/2017 là đúng đắn, Tòa án cấp phúc thẩm không tổng hợp hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm nêu trên, nhưng tuyên thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/8/2017 là không phù hợp. Các sai sót trên cần rút kinh nghiệm trong quá trình xét xử các vụ án khác.
5. Quyết định giám đốc thẩm số 29/2017/HS-GĐT ngày 03/7/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án hình sự về các tội “Bắt giữ người trái pháp luật”, “Cưỡng đoạt tài sản” và “Cướp tài sản” đối với các bị cáo do có kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao
Nội dung hủy án:
(i) Về hành vi bắt giữ ông T: Trong quá trình điều tra bị cáo L có khai “Sau khi nhận điện thoại của ông T thì chồng tôi ghen tuông, mặc dù tôi giải thích nhiều lần nhưng ông D không tin mà bắt tôi phải gọi điện cho ông T vào để diễn tả lại những việc trước đây tôi đã ngoại tình với ông T như thế nào ...”. Mặt khác, khi D hỏi có đồng ý ông T “bồi thường” với số tiền 12.000.000 đồng thì L nói “phải đưa 15.000.000 đồng mới được”. Như vậy, D đã biết trước việc L và ông T ngoại tình, D “buộc” L gọi điện hẹn ông T đến nhà mình, sau đó về bắt quả tang là có sự sắp đặt và chuẩn bị trước. Do đó cần làm rõ việc D và L có thông mưu để “Bắt giữ trái pháp luật” ông T không, nếu có thì cần truy tố D, L theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự.
(ii) Đối với hành vi lục túi quần lấy số tiền 91.000₫ của ông T: Sau khi có hành vi xích chân ông T vào cột nhà, đánh đập làm ông T không còn khả năng kháng cự, D và L tự ý lục túi quần ông T để lấy tiền. Như vậy hành vi lục túi quần lấy số tiền 91.000 đồng của D, L đã đã cấu thành tội “Cướp tài sản”. Do đó cần phải điều tra, truy tố đối với hành vi “Cướp tài sản” của D và L.
(iii) Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng hành vi chiếm đoạt 91.000 đồng của D, L phạm vào tội “Cưỡng đoạt tài sản”, còn hành vi chiếm giữ 01 điện thoại di động hiệu Nokia, 01 chiếc xe mô tô biển kiểm sát 47M9-7870, do tổng giá trị tài sản là 5.700.000₫ nên chưa đủ cấu thành tội “Chiếm giữ trái phép tài sản”. Tòa án cấp phúc thẩm lại cho rằng, hành vi buộc ông T viết giấy bồi thường 15.000.000₫, giữ tài sản là chiếc xe mô tô, điện thoại di động là cấu thành tội “Cướp tài sản”. Như đã phân tích ở trên, nhận định của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk và Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk là chưa chính xác.
Trong vụ án này, các hành vi phạm tội “Bắt giữ người trái pháp luật”, “Cưỡng đoạt tài sản” và “Cướp tài sản” của Lê Văn D và Ngô Thị L có quan hệ mật thiết với nhau, hành vi phạm tội trước là tiền đề cho hành vi phạm tội sau, hơn nữa bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm cũng có những sai sót. Do đó, để giải quyết vụ án một cách triệt để cần phải hủy cả bản án hình sự sơ thẩm và bản án hình sự phúc thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại.
6. Quyết định giám đốc thẩm số 75/2024/HS-GĐT ngày 17/9/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hình sự về tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Thanh D do có kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao
Nội dung hủy án:
Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm nhận định: Chị H sau khi bị ném bột ớt và bị giật điện thoại vẫn chạy theo để kéo bị cáo lại, không lâm vào tình trạng mất khả năng chống cự. Bị cáo công khai, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của chị H, rồi nhanh chóng tẩu thoát để xét xử bị cáo D về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự là không phản ánh đúng ý chí chủ quan và hành vi khách quan của bị cáo. Trường hợp này, chị H không bị cay mắt, còn khả năng chống cự là ngoài ý muốn của bị cáo.