Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về việc giả mạo chữ ký, chữ viết

MỤC LỤC

1. Bản án dân sự phúc thẩm số 483/2024/DS-PT ngày 06/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản trên đất và yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.

2. Bản án dân sự phúc thẩm số 675/2024/DS-PT ngày 23/8/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản trên đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.

3. Bản án dân sự phúc thẩm số 930/2024/DS-PT ngày 29/10/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất.

4. Bản án dân sự phúc thẩm số 96/2024/DS-PT ngày 22/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

5. Bản án dân sự phúc thẩm số 215/2024/DS-PT ngày 26/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về tranh chấp quyền sử dụng đất.

6. Bản án dân sự phúc thẩm số 169/2023/DS-PT ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

7. Bản án dân sự phúc thẩm số 117/2023/DS-PT ngày 28/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp về kiện đòi lại tài sản.

8. Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2022/DS-PT ngày 24/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng về tranh chấp hợp kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất.

9. Bản án dân sự phúc thẩm số 106/2023/DS-PT ngày 24/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

10. Bản án dân sự phúc thẩm số 246/2024/DS-PT ngày 09/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất.

 

1. Bản án dân sự phúc thẩm số 483/2024/DS-PT ngày 06/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản trên đất và yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.

Nội dung hủy án:

(i) Tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của bà Nguyễn Thị Thu T2 tại cấp phúc thẩm như sau:

Bà Nguyễn Thị Thu T2 cần vay số tiền lớn để trả nợ nên gặp bà Nguyễn Thị P3, địa chỉ: khu dân cư C, thành phố T và ông Nguyễn Ngọc D1 (không rõ địa chỉ) giới thiệu gặp bà Võ Thị L2, sinh năm 1980, hộ khẩu số I đường P, Phường C, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh để vay tiền. Bà L2 giới thiệu cho bà T2 gặp ông Vũ Minh T (bị đơn) vay số tiền 12.000.000.000 đồng (gồm tiền gốc 9.819.000.000 đồng và lãi 2.181.000.000 đồng).

Ông T yêu cầu thế chấp tài sản thì bà T2 trình bày có thửa đất số 38 đang đứng tên chồng là ông Nguyễn Đình P (nguyên đơn) và đang thế chấp tại Ngân hàng V. Ông T hướng dẫn bà T2, bà L2, bà P3 thực hiện phương án theo chỉ đạo của ông T như sau:

Bà Nguyễn Thị P3 là người soạn “Giấy ủy quyền”, bà Nguyễn Thị Thu T2 là người giả chữ ký của ông Nguyễn Đình P. Giấy ủy quyền có nội dung ông P ủy quyền cho bà Võ Thị L2 để thực hiện các nội dung sau: nộp và nhận bản chính hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất; nộp hồ sơ xin trích lục bản vẽ và đo đạc khảo sát đất; nộp hồ sơ đăng ký chuyển mục đích sử dụng đất (chuyển thổ cư); xác lập, ký tên và nộp các loại thuế có liên quan về quyền sử dụng đất của thửa đất nêu trên theo quy định của pháp luật; nhận bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giấy ủy quyền này được Ủy ban nhân dân phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương xác nhận ngày 13/6/2018.

Bà T2 thừa nhận, qua sự bàn bạc bà P3 là người thảo nội dung, bà T2 giả mạo chữ ký của ông P tại Giấy ủy quyền này, mục đích sử dụng giấy ủy quyền này để cho bà L2 được nhận bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông P đang thế chấp tại Ngân hàng VCB khi tất toán khoản vay của vợ chồng bà T2 tại ngân hàng này.

Sau khi được Ủy ban nhân dân phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương xác nhận chữ ký của ông P tại Giấy ủy quyền trên. Ngày 21/6/2018, ông Vũ Minh T (lấy tư cách đại diện của Phòng Kinh doanh số 4 – Công ty TNHH MTV H2) ký hợp đồng cho bà Nguyễn Thị Thu T2, ông Nguyễn Đình P vay vốn; hợp đồng vay vốn chỉ có bà T2 ký tên, ông P không ký tên, số vốn vay 12.000.000.000 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm bà T2, trình bày trong số tiền 12.000.000.000 đồng thì tiền vốn vay thực tế là 9.819.000.000 đồng và lãi 2.181.000.000 đồng của 03 tháng vay.

Cùng ngày 21/6/2018, bà T2 cùng ông T, bà P3, bà L2 mang giấy ủy quyền đến Ngân hàng VCB xin thanh toán nợ vay trước hạn, ông T chuyển vào tài khoản của ông P đăng ký tại Ngân hàng V số tiền còn nợ là 4.569.000.000 đồng để trả cho Ngân hàng V. Sau khi tất toán tiền vay, Ngân hàng V trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T2 (bút lục 29) và ông T chiếm giữ ngay giấy chứng nhận này.

Sau đó, bà T2, ông T, bà L2, bà P sử dụng Giấy ủy quyền trên mang đến Ủy ban nhân dân xã Đ xin xác nhận tình trạng bất động sản để vay vốn và được Ủy ban xác nhận (bút lục 138); rồi mang đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B xóa thế chấp, trích lục thửa đất.

Ngày 25/6/2018, ông P ký hợp đồng ủy quyền cho bà T2 được quyền sử dụng thửa đất 38 nêu trên (bút lục 444). Cùng ngày 25/6/2018, bà T2 ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất 38 của ông P cho ông Vũ Minh T. Ông Tâm giao t cho bà T2 số tiền 5.250.000.000 đồng.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy: các nội dung trên Tòa án cấp sơ thẩm xác minh, thu thập chưa đầy đủ. Đưa thiếu người tham gia tố tụng (bà L2, bà P, ông D1 cần đưa vào để đối chất, làm rõ). Nhận định và quyết định của bản án chưa phù hợp với tình tiết của vụ án.

(ii) Bà Nguyễn Thị Thúy L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có yêu cầu độc lập, trình bày ngày 01/8/2018, bà L ký hợp đồng chuyển nhượng dự án (không có chứng thực) với ông Nguyễn Đình P thửa đất số 38, tờ bản đồ số 36, diện tích 19.197m2 và toàn bộ tài sản ông P tạo lập trên đất gồm: 01 nhà kho chứa phân diện tích 63,7m2 kết cấu mái tôn, nên xi măng, tường xây tô, cửa cuốn; 01 căn nhà nuôi yến diện tích 251,6m2 kết cấu mái tôn, nền xi măng, cửa sắt; 01 căn nhà cho công nhân ở diện tích 21m2 kết cấu mái tôn, tường gạch, nền gạch bông; 01 chuồng gà diện tích 18m2 kết cấu mái tôn, cột gỗ, lưới B40 bao quanh; 01 hàng rào lưới B40 chiều dài 102m; 01 cổng sắt rộng 4m, cao 1,5m; 01 chân bồn nước 3m2 và 01 bồn nước 500lít; 500 cây bưởi;

2000 cây cam; 01 trụ điện bê tông cột thép và 10 trụ điện bằng sắt; 01 máy bơm công nghiệp; 02 máy bơm hoa tiễn, thời hạn sử dụng 20 năm, tài sản tọa lạc tại xã Đ, huyện B với giá 4.900.000.000 đồng. Bà L đã giao cho ông P số tiền 1.500.000.000 đồng và ngày 10/4/2019 giao tiếp 3.400.000.000 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh thu thập làm rõ nội dung bà L nhận chuyển nhượng dự án của ông P, thực tế nhận chuyển nhượng tài sản gì của ông P (đất và tài sản trên đất hay như thế nào). Bản án sơ thẩm của Tòa án huyện Bắc Tân Uyên giải quyết chưa đảm bảo quyền lợi của bà L.

Nhận thấy, cấp sơ thẩm đưa thiếu người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương hủy bản án sơ thẩm giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án cần xem xét việc ủy quyền của các đương sự cho hợp pháp.

2. Bản án dân sự phúc thẩm số 675/2024/DS-PT ngày 23/8/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản trên đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.

Nội dung hủy án:

(i) Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc Đ xin rút một phần yêu cầu khởi kiện và kháng cáo đối với yêu cầu hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất diện tích 276m2 thửa 1680, tờ bản đồ số 10 loại đất trồng cây hàng năm giữa cụ Nguyễn Thị M1 cho ông Lê Văn P và bà Nguyễn Thị Hồng H; phía bị đơn và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan đồng ý. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và việc bị đơn đồng ý việc rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử hủy một phần bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc Đ về việc yêu cầu Toà án huỷ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa 1680 diện tích 276m2 tờ bản đồ số 11.

(ii) Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ngọc Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc D:

Thửa đất số 522, có diện tích 2.500m2 (diện tích thực đo là 2.282,2m2) loại đất T+Q tờ bản đồ số 10 và thửa 170 diện tích 6.140m2 tờ bản đồ số 11 có nguồn gốc là của cụ Nguyễn Văn K1 (cha bà Đ, cha dượng ông P) kê khai đăng ký và được Ủy ban nhân dân huyện D (nay là Ủy ban nhân dân thị xã D) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ cụ K1 vào ngày 17 và ngày 21/8/1995. (Công văn số 614/UBND-KT ngày 16/3/2022 của UBND thị xã D khẳng định là đất cấp cho hộ cụ K1 – BL 119). Ngày 06/8/2003 cụ Nguyễn Văn K1 lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 02 thửa 522 diện tích 2.500m2 và 170 diện tích 6.140m2 (tổng diện tích chung 8.640m2) loại đất TQ – Ao cho ông Lê Văn P có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã L vào ngày 20/8/2003.

Hội đồng xét xử xét thấy, về trình tự, thủ tục lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ Nguyễn Văn K1 với ông Lê Văn P đối với các thửa 522 và thửa 170 lập vào ngày 06/8/2003 chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật, bởi lẽ:

Hai thửa đất trên được Ủy ban nhân dân huyện D cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ cụ K1 nhưng chỉ có một mình cụ K1 thực hiện việc chuyển nhượng (thửa 522, 170) và trong quá trình giải quyết vụ án ông P thừa nhận: “trong hợp đồng chỉ có một mình ông ký tên, còn chữ ký và chữ viết của cụ Nguyễn Văn K1 là do ông tự ký và viết tên dùm cụ K1” trước sự chứng kiến của Ủy ban nhân dân xã nơi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là chưa đảm bảo về trình tự thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 131, 705, 707 Bộ luật Dân sự năm 1995.

Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng thời điểm kê khai, đăng ký thì các con của cụ K1, cụ M1 không có công sức đóng góp gì đối với tài sản này là thửa 522, 170 mà đây là tài sản chung của cụ K1 và cụ M1 là áp dụng không đúng pháp luật. Cụ thể: Theo khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”. Quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong trường hợp này là quyền sử dụng chung của các thành viên trong gia đình. Tại khoản 2 Điều 212 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định: “Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác”.

Như vậy khi chuyển nhượng, thừa kế hay có tranh chấp xảy ra thì các thành viên trong hộ gia đình có quyền ngang nhau. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy trong vụ án này cần áp dụng quy định khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai và khoản 2 Điều 212 Bộ luật Dân sự 2015 để giải quyết tranh chấp, xác định việc cụ Nguyễn Văn K1 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Lê Văn P các thửa 522, thửa 170 được lập vào ngày 06/8/2003 là vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong hộ cụ K1 (Công văn số 67/CATX ngày 22/6/2020 của Công an thị xã D trả lời về kết quả khai thác tàng thư hộ khẩu – BL 26 – Hộ cụ K1 có 11 nhân khẩu), không thể nhận định “thời điểm kê khai, đăng ký thì các con của cụ K1, cụ M1 không có công sức đóng góp gì đối với tài sản này là thửa 522, 170 và 1680 mà đây là tài chung của cụ K1 và cụ M1”.

Lẽ ra trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm cần áp dụng Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 1995 để hủy hợp đồng chuyển nhượng thửa 522, thửa 170 do vi phạm về mặt hình thức và nội dung mới đảm bảo pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại công nhận việc chuyển nhượng nói trên là ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của các bên đương sự trong vụ kiện.

(iii) Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Lê Văn P và cụ Nguyễn Thị M1 đều thừa nhận: cụ K1 chuyển nhượng đất cho ông P để lấy tiền nhằm mục đích trả nợ ngân hàng và để sửa nhà, thửa 170 chuyển nhượng với số tiền 45.000.000 đồng; thửa 522 số tiền 25.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định cụ K1 và cụ M1 đã nhận đủ tiền là không đúng với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, bởi lẽ lời khai của cụ M1 tại Tòa án chỉ thừa nhận có nhận 60.000.000 đồng chuyển nhượng thửa 1680 nhưng thời điểm này, cụ K1 đã chết. Còn thửa 522, 170 cụ M1 không có nhận tiền, trong Hợp đồng chuyển nhượng cũng không ghi giá tiền, cụ K1 đã chết và ông P cũng không chứng minh được có giao đủ tiền cho cụ K1 như ông P đã trình bày; nguyên đơn và các con của cụ K1 không thừa nhận có việc giao nhận tiền, sử dụng tiền chuyển nhượng đất vào sinh hoạt, nuôi dưỡng gia đình.

Hội đồng xét xử cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ cụ M1 trình bày số tiền vợ chồng bà chuyển nhượng cũng sử dụng chung cho mục đích của gia đình, từ đó cần phải công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với 03 thửa đất trên cho ông P là vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của các con của cụ K1, cụ M1.

3. Bản án dân sự phúc thẩm số 930/2024/DS-PT ngày 29/10/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất.

Nội dung hủy án 

(i) Đối với 02 “Tờ bán đất” cùng ngày 11/4/1989 cũng có sự mâu thuẫn về diện tích và về số lúa chuyển nhượng:

“Tờ bán đất” ngày 11/4/1989 (mực màu đỏ) có nội dung bà Huỳnh Thị T “sang đứt số đất ruộng với diện tích là 5 công… cho anh Võ Văn E 31 tuổi… với giá cả là 125 giạ lúa… đã đông cho tôi đủ nhận số lúa có mặt em tôi là Huỳnh Văn T1…”.

“Tờ bán đất” ngày 11/4/1989 (mực màu tím) có nội dung bà Huỳnh Thị T “sang đứt số đất ruộng với diện tích là 2.980 m2… cho Nguyễn Văn L 52 tuổi… với giá cả là 100 giạ lúa… tôi đã nhận đủ số lúa… có mặt em tôi là Huỳnh Văn T1…”.

Kết luận giám định số 131/KL-KTHS ngày 26/3/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh kết luận:

Không đủ cơ sở kết luận chữ ký dưới mục “Người bán” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A2 (mực màu đỏ) so với chữ ký của Huỳnh Thị T trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M5 đến M8 có phải do cùng một người ký ra hay không.

Chữ ký, chữ viết dưới mục “Người bán” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A1 (mực màu tím) so với chữ ký, chữ viết của Huỳnh Thị T trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M4 không do cùng một người ký, viết ra.

Như vậy, chưa có cơ sở để xác định bà Huỳnh Thị T đã ký tên vào 02 “Tờ bán đất” nêu trên.

(ii) Tại Biên bản xác minh ngày 18/12/2014 (bút lục 38), ông Võ Văn E trình bày: “Vào năm 1989 tôi có mua 5 công đất của bà T khu vực ấp Rạch Sâu, xã Long Hoà, CTTV do ông Huỳnh Văn T1 đứng ra bán có làm giấy tay và ông T1 đã nhận đủ số lúa. Sau đó 2 năm canh tác tôi mới chuyển nhượng lại cho anh Nguyễn Văn H1”.

Lời khai trên của ông Võ Văn E đã xác định chính ông Huỳnh Văn T1 là người chuyển nhượng đất của bà Huỳnh Thị T cho ông E và ông T1 cũng là người đã nhận đủ số lúa chuyển nhượng đất. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã bác yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị T là chưa đủ căn cứ vững chắc. Vì vậy không có căn cứ để chấp nhận giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và do không xác định được trong Thửa đất số 224 và Thửa đất số 225 thì có bao nhiêu diện tích có nguồn gốc từ Thửa đất số 60 do bà T kê khai đăng ký vào năm 1983, nên cũng không có căn cứ để sửa Bản án sơ thẩm.

Do Tòa án cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ chưa đầy đủ như đã phân tích trên mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, nên hủy Bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

4. Bản án dân sự phúc thẩm số 96/2024/DS-PT ngày 22/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Nội dung hủy án 

(i) Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật tranh chấp:

Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Hoàng Thị Thanh T sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện: Đề nghị Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà T và cụ Lương Thị G có hiệu lực. Buộc ông S2 trả lại cho vợ chồng bà T diện tích đất đã nhận chuyển nhượng của cụ G. Trường hợp, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì đề nghị phía bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến cụ G phải thanh toán giá trị tài sản theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán cho bà T. TAND huyện L1 xác định lại quan hệ pháp luật là “Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và huỷ GCNQSDĐ”. Hội đồng xét xử thấy rằng: Mặc dù quá trình giải quyết bị đơn ông Nguyễn Văn S2 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Vũ Thị P có đề nghị Toà án huỷ GCNQSDĐ cấp cho bà T và cấp cho cụ G, nhưng theo hướng dẫn tại Công văn số 64/TATC-PC ngày 03/4/2019 và Công văn số 79/TANDTC- PC ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thì khi giải quyết tranh chấp về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được cấp GCNQSDĐ thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp GCNQSDĐ tham gia tố tụng và không cần thiết phải tuyên huỷ GCNQSDĐ cho người nhận chuyển nhượng. Khi Tòa án tuyên hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất vô hiệu thì Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại GCNQSDĐ phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án. Do vậy, Toà án nhân dân huyện L1 thụ lý, giải quyết vụ án và xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” là có căn cứ theo quy định tại Điều 26; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, nhưng Toà án cấp sơ thẩm xác định cả quan hệ pháp luật là “huỷ GCNQSDĐ” là chưa phù hợp. Do đó cấp phúc thẩm xác định lại quan hệ pháp luật trong vụ án là “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

(ii) Xét nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát về việc cấp sơ thẩm vi phạm trong việc xác định người có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng:

Viện kiểm sát kháng nghị cho rằng, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (yêu cầu buộc thực hiện hợp đồng) ...”. Việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa người chuyển nhượng (cụ G) và người nhận chuyển nhượng (bà T). Nay cụ G đã chết, di sản thừa kế của cụ G chưa được chia nên quyền và nghĩa vụ của cụ G phải do các đồng thừa kế cùng thực hiện. Trường hợp công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phải buộc các đồng thừa kế của cụ G thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, nghĩa là phải giao tài sản cho bên nhận chuyển nhượng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã đưa các con của cụ G vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng không buộc những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ G phải thực hiện nghĩa vụ trả lại đất cho bà T mà chỉ buộc một mình ông S2 (những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông S2) thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà cụ G để lại là chưa đầy đủ.

Nội dung kháng nghị nêu trên là chưa đúng, bởi lẽ trong vụ án này mặc dù các đương sự tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cụ thể là tranh chấp về tính hiệu lực của Hợp đồng (có hiệu lực hay vô hiệu). Do Toà án cấp sơ thẩm công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ G và bà T có hiệu lực, nên Toà cấp sơ thẩm buộc bị đơn (nay do người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của bị đơn) là người đang chiếm giữ tài sản mà nguyên đơn được công nhận phải có trách nhiệm hoàn trả như bản án sơ thẩm đã quyết định, những người con khác của cụ G không chiếm giữ nên không có trách nhiệm hoàn trả là là phù hợp với nội dung quyết định của cấp sơ thẩm, vì vậy kháng nghị trên của Viện kiểm sát không được chấp nhận.

Tuy nhiên, đối với nội dung này cấp sơ thẩm cũng có thiếu sót là tuyên chưa rõ ràng tại phần quyết định về nghĩa vụ của bị đơn do người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn phải thực hiện là trả lại diện tích đất cho ai.

(iii) Xét nội dung kháng nghị về việc Toà án cấp sơ thẩm vi phạm trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ dẫn đến chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa có căn cứ, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16/10/2007 được lập giữa cụ Lương Thị G và bà Hoàng Thị Thanh T, thể hiện có chữ ký , ghi rõ họ và tên Lương Thị G.

Tuy nhiên, tại lời khai của ông Nguyễn Văn S2 (bút lục 241), lời khai của bà Nguyễn Thị N2 (bút lục 261), lời khai của anh Nguyễn Hoài N (bút lục 269), lời khai của ông Nguyễn Sơn G1 - Nguyên là cán bộ địa chính thời gian từ năm 1990 đến năm 2017 (BL 239), lời khai của ông Vũ Hiền L5 - Nguyên là Chủ tịch UBND xã Q1 thời kỳ 2000-2019 là người đã ký xác nhận vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ G và bà T (BL 254) đều khẳng định cụ G không biết chữ và không thể tự ký, viết tên được nên chữ ký, chữ viết tên cụ G trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải do cụ G ký, viết ra. Ông Lương khai rằng do cụ G không viết được nên có nhờ một người con gái viết hộ. Những người liên quan, người làm chứng khác đều không xác định được ai là người ký, viết tên Nguyên vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Lời khai của anh Nam, bà T, ông G1 đều khẳng định mọi thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ G và bà T là do bà N2 đứng ra làm. Quá trình làm việc với bà N2 ban đầu bà N2 khai cụ G không biết chữ, bà không biết cụ nhờ ai ký, viết tên vào Hợp đồng mà bà chỉ là người đi nộp hộ thủ tục cho cụ G nhưng sau đó bà N2 lại thay đổi lời khai và khẳng định chữ ký, chữ viết trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là do cụ G ký và viết ra.

Ngoài ra, tại lời khai của bà T trình bày: Mọi thủ tục mua bán thửa đất 556.1, tờ bản đồ số 25 diện tích 180 m2 tại thôn C3, xã Q1 đều do bố chồng bà đứng ra mua bán với cụ Nguyên và con gái cụ Nguyên là bà N2, bà chỉ là người đứng tên trong GCNQSDĐ. Bà chưa đến Uỷ ban nhân dân xã Q1 làm thủ tục gì về việc mua bán thửa đất này. Việc mua bán do bố chồng bà đứng ra làm, ngày giao tiền cho bà N2 và cụ G thì có chồng bà và bố chồng bà đi giao tiền, nguồn tiền mua là của 02 vợ chồng bà. Con gái cụ G là bà N2 là người đứng ra mua bán. Làm thủ tục giấy tờ và nhận tiền bán đất từ gia đình bà, gia đình bà mua thửa đất này với giá 45.000.000 đồng và cho thêm cụ G 5.000.000 đồng để làm GCNQSDĐ. Cụ V và ông N giao tiền tại nhà bà H3 (con gái cụ G) khi đó có bà N2 và chồng bà H3 nhận tiền trực tiếp. Ngày ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ bà không có mặt ở đó (Bút lục 254). Còn lời khai của ông N chồng bà T lại khai: Năm 2007, bố ông là cụ V, cụ V là em họ của cụ G biết thông tin cụ G muốn bán 01 thửa đất để lấy tiền chữa bệnh, dưỡng già nên cụ Vcó hỏi mua đất của cụ G. Mọi thủ tục mua bán thửa đất số 556.1, tờ bản đồ số 25, diện tích 180m2 tại thôn C3, xã Q1 đều do cụ Vđứng ra mua bán với bà Nguyễn Thị N2 (con gái của cụ G). Ông chỉ là người đưa cụ Vđi giao dịch, còn bà T là người đứng tên trong GCNQSDĐ. Ông không đưa cụ Vđến UBND xã Q1 làm thủ tục chuyển nhượng nên không biết khi làm hợp đồng chuyển nhượng có mặt những ai. Cụ G không biết chữ và thời điểm đó cũng không thể viết và ký tên được, nhưng ông cũng không biết chữ ký và chữ viết của cụ G trong Hợp đồng chuyển nhượng là do ai viết và ký ra. Cụ V mua thửa đất trên với giá 45.000.000 đồng và cho thêm cụ G 5.000.000 đồng để làm GCNQSDĐ, nguồn tiền mua đất là của hai vợ chồng ông. Khi giao tiền hai bên có viết biên bản giao nhận, các loại giấy tờ mua bán đều do cụ V giữ, nhưng năm 2012 cụ Vchết, gia đình có tìm kiếm nhưng không tìm thấy biên bản giao nhận tiền giữa cụ G và cụ Viên. Cụ Vgiao tiền cho cụ G tại quán nước của cụ G trên chính thửa đất bán cho gia đình ông, cụ V đưa tiền trực tiếp cho cụ G, lúc đó có mặt bà N2 và chồng bà Nguyễn Thị H3 (Bút lục 269).

Trong khi ông L5 - Nguyên Chủ tịch UBND xã lại trình bày: Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ G và bà T ông nhớ ngày hôm đó có bà T, cụ G và bà N2 đến UBND xã Q1 để làm hợp đồng chuyển nhượng, nhưng khi đó cụ G không viết và ký được nên có nhờ con gái ký hộ, viết hộ tên. Ông không nhớ tên người con gái đã ký và viết tên giúp cụ vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là ai, chỉ biết khi đó có bà N2 và 01 người con gái nữa. Vì vậy chữ ký và chữ viết trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải do cụ G ký và viết; còn ông G1 - địa chính xã trình bày: Ông chỉ làm thủ tục tách đất cho cụ G theo đề nghị của cụ G tách làm 02 phần (01 phần cho vợ chồng ông S2, và Phú; 01 phần của cụ G), trong khi tại hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho bà T thể hiện là hiện trạng tách đất chuyển nhượng hộ bà Hoàng Thị T.

Như vậy, toàn bộ các lời khai của các đương sự còn mâu thuẫn về việc lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ G với bà T. Trong đó, có cả mâu thuẫn của chính vợ chồng nguyên đơn về địa điểm và người tham gia lập Hợp đồng chuyển nhượng. Những nội dung trên còn nhiều mâu thuẫn chưa được cấp sơ thẩm xác minh làm rõ. Hơn nữa, các đương sự cũng khẳng định: Năm 2005 cụ G sống cùng vợ chồng bà Hiền tại thôn K1, xã L7. Khi đó, toàn bộ tài sản của cụ N3 và cụ G để lại do vợ chồng ông S2 quản lý, GCNQSDĐ cấp đứng tên hộ cụ N3 vẫn do ông S2 quản lý, lý do vì sao cụ G lại được cấp GCNQSDĐ mới đối với thửa đất số 556; UBND huyện L1 cho rằng không tìm được hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho cụ G năm 2005, tuy nhiên ai là người kê khai cho cụ để cụ được cấp GCNQSDĐ nếu các đương sự cho rằng cụ không biết đọc, biết chữ? Ngoài việc lưu trữ hồ sơ quản lý đất đai tại UBND huyện L1, UBND xã Q1 thì Phòng nội vụ, Trung tâm lưu trữ tỉnh Vĩnh Phúc có lưu giữ hồ sơ nêu trên không? Toà án nhân dân huyện chưa làm rõ nội dung trên. Đồng thời, tại hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ của bà T còn nhiều mâu thuẫn như: Chủ tịch UBND xã xác nhận vào hợp đồng ngày 16/10/2007, nhưng trước đó 14 ngày (ngày 02/10/2007) bà Hoàng Thị Thanh T đã có đơn xin cấp giấy GCNQSDĐ và trước đó 08 ngày (ngày 08/10/2007) UBND xã Q1 đã có tờ trình số 34/TTr-UBND về việc cấp GCNQSDĐ trước khi các bên lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Toà án cấp sơ thẩm không làm rõ nội dung trên với bà T và UBND xã Q1. Do đó, chưa đủ cơ sở để đánh giá Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập ngày 16/10/2007 thể hiện bên chuyển nhượng là cụ G với bên nhận chuyển nhượng là bà T có hiệu lực hay không có hiệu lực.

Đồng thời, căn cứ theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản của Toà án cấp sơ thẩm xác định trên phần đất tranh chấp có các tài sản và cây cối gồm: 01 cây nhãn Φ 10 trị giá 600.000 đồng, 01 cây nhãn Φ 35 trị giá 2.000.000 đồng, 01 cây nhãn Φ 15 trị giá 1.000.000 đồng, 01 cây nhãn Φ 20 trị giá 1.000.000 đồng, 01 cây vải Φ 15 trị giá 1.000.000 đồng, 19 cây chuối trị giá 550.000 đồng, 01 cây xoài Φ 40 trị giá 1.500.000 đồng, 01 cây xoài Φ 20 trị giá 650.000 đồng, 22,5m2 mái lợp tôn, 4,1m3 tường rào xây gạch, 12m2 quán lợp ngói. Đối với số tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất trên, Toà án cấp sơ thẩm xác định trước là của cụ N3, cụ G, nay là của gia đình ông S2. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm cũng không làm rõ khi các bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Hợp đồng chuyển nhượng thì các bên có thoả thuận chuyển nhượng đối với tài sản nêu trên không? Tài sản trên hiện nay là của ai đề từ đó còn xác định quyền và nghĩa vụ của đương sự khi giải quyết tranh chấp.

Với những thiếu sót nêu trên của cấp sơ thẩm, mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể khắc phục, bổ sung được nên cần chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện L1, hủy bản án sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện L1, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

5. Bản án dân sự phúc thẩm số 215/2024/DS-PT ngày 26/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về tranh chấp quyền sử dụng đất.

Nội dung hủy án:

(i) Về nội dung vụ án: Nguyên đơn bà Phùng Ngọc H và bà Nguyễn Thị Kim H1 khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Huỳnh Quốc H3, bà H và bà H1 cho rằng, phần diện tích đất mà ông H3 đang sử dụng xây dựng nhà là phần diện tích đất thuộc thửa 911 mà bà H và bà H1 đã nhận chuyển nhượng của bà Đặng Thị T1. Toà án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H và bà H1 nên các nguyên đơn đã làm đơn kháng cáo. Đồng thời bà T1 cho rằng bà không chuyển nhượng phần còn lại của thửa 304, mà do người khác giả mạo chữ ký lập thủ tục ủy quyền để chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông H3 nên bà T1 kháng cáo yêu cầu ông H3 trả đất.

Căn cứ vào Kết luận giám định số 864/2020/KLGĐ ngày 28/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L thì chữ ký của bà T1, ông G cùng con là Bùi Chí L trong Hợp đồng uỷ quyền số 171 ngày 10/10/2018 định đoạt 153m2 đất thuộc một phần thửa 304 không phải là của bà T1, ông G và ông L, vì vậy việc uỷ quyền cho ông Nguyễn Văn N1, sau đó ông N1 đại diện thực hiện chuyển nhượng cho ông N, ông N chuyển nhượng cho ông H3 là không đúng ý chí của bà T1, ông G và ông Chí L. Do ông N1, ông N không tham gia tố tụng, nên không có cơ sở xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông H3 có thực tế đúng quy định pháp luật hay không.

(ii) Qua xem xét hồ sơ cấp quyền sử dụng của bà Nguyễn Thu C thấy rằng: Theo Báo cáo số 2588/PTNMT-BN ngày 01/7/2022 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đ thì bà C là chủ sử dụng thửa đất số 303 tờ bản đồ số 17 trên cơ sở được tặng cho từ bà Nguyễn Thị N2, bà C được điều chỉnh đứng tên vào ngày 04/10/2019, việc cấp quyền sử dụng đất của bà C không có tiến hành đo đạc thực tế. Ngày 07/10/2019, bà C có đơn xin chuyển mục đích đất của thửa 303 tờ đất BHK sang đất ODT, diện tích 557m2. Ngày 02/12/2019, bà C được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 303 loại đất ODT. Việc cấp quyền sử dụng đất cho bà C không tiến hành đo đạc, chỉ dựa vào Trích lục bản đồ địa chính. Theo Trích lục bản đồ địa chính ngày 14/10/2019 thì thửa đất số 303 của bà C có cạnh hướng Bắc giáp thửa đất 910 của bà H1, đối chiếu với đường đá xanh đối diện thửa 910 thì cạnh hướng Nam của đường đá xanh và cạnh hướng Bắc của thửa 303 là một đường thẳng. Tuy nhiên thực tế bà C đã sử dụng luôn toàn bộ thửa 910 làm cho bà H1 và bà H mất toàn bộ diện tích của một trong hai thửa đất đã nhận chuyển nhượng của bà T1. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, bà C không tham gia tố tụng, các diện tích đất chưa được đối chiếu với bản đồ địa chính, chưa xác định việc sử dụng đất của các bên có phải sai ranh giới sử dụng hay không, trong khi đó tại phiên toà, bà T1 lại trình bày cho rằng, đất của bà C cũng do gia đình bà T1 chuyển nhượng, vấn đề này chưa thu thập làm rõ.

(iii) Theo Công văn số 3769/UBND-NC ngày 16/4/2021 của Ủy ban nhân dân huyện Đ thì Uỷ ban không xác định được có tồn tại thửa đất 304 tờ bản đồ số 17 trên trích lục bản đồ địa chính hay không. Trong khi đó Uỷ ban đã công nhận quyền sử dụng thửa đất này và cấp giấy phép xây dựng cho ông H3 (BL 105), Uỷ ban cần phải xác định giá trị pháp lý của việc cấp quyền sử dụng các thửa đất cho bà H, bà H1, ông H3 và bà C, việc mất một thửa đất trên thực tế là do sử dụng sai ranh giới hay do việc cấp quyền sử dụng đất có sai sót cũng cần phải được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai xác định.

Từ những nhận định trên, có cơ sở huỷ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án về Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

6. Bản án dân sự phúc thẩm số 169/2023/DS-PT ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Nội dung hủy án:

(i) Về sự tham gia của người tiến hành tố tụng: Theo như hồ sơ vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn Bà Võ Thanh T với bị đơn Bà Nguyễn Kim L, cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác đã được Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm. Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 22/2019/DS-ST ngày 01/11/2019; biên bản nghị án ngày 01/11/2019; biên bản phiên tòa ngày 29/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện T đều có thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm: Thẩm phán- chủ tọa phiên tòa là ông Nguyễn H; các Hội thẩm nhân dân có ông Trần Hoàng Việt và ông Nguyễn Văn H tham gia giải quyết vụ án. Ngày 08/6/2020 bản án trên bị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy toàn bộ bản án và giao hồ sơ về Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung (theo bản án phúc thầm số 57/2020/DS-PT ngày 08/6/2020). Tuy nhiên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 03/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện T giải quyết lại vụ án thì Hội thẩm nhân dân ông Nguyễn Văn H lại tiếp tục tham gia xét xử vụ án.

Việc Hội thẩm nhân dân ông Nguyễn Văn H đã tham gia xét xử tại hai bản án dân sự sơ thẩm trong cùng một vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Vì tại khoản 3 Điều 53 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây: … 3. Họ đã tham gia giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ việc dân sự đó và đã ra bản án sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, quyết định giải quyết việc dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, trừ trường hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao thì vẫn được tham gia giải quyết vụ việc đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.”. Như vậy, trong trường hợp này Hội thẩm nhân dân ông Nguyễn Văn H phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.

(ii) Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm bị đơn L có nhiều lời khai (BL 65,67a,67g,290,616,741) “về việc xác lập, ký kết và chứng thực hợp đồng có mặt hay không có mặt bà T” trước sau mâu thuẫn, không thống nhất; cũng như lời khai của người làm chứng Sơn (BL 679,772) trước sau không thống nhất nhưng cấp sơ thẩm cũng không làm rõ; bà L có lời khai do bị trầm cảm nhưng cũng không chứng minh có việc trầm cảm. Vấn đề này đã được cấp phúc thẩm trước đây đặc ra nhưng qua nghiên cứu hồ sơ chưa thấy làm rõ. Đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn không thừa nhận có giao dịch chuyển nhượng nhà đất và không có ký vào các giấy tờ chuyển nhượng. Ông Th thừa nhận có xác lập và ký “Hợp đồng chuyển nhượng ngày 23/9/2008”, bà T cho rằng Ông Th làm các hợp đồng với mục đích vay tiền nên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do giả tạo, Ông Th ký thay luôn cho nguyên đơn và bị đơn; Ông Th không thừa nhận có ký hay viết vào Giấy tay chuyển nhượng nhà và đất ngày 23/9/2008 và không có nhận số tiền chuyển nhượng 150.000.000 đồng, chỉ nhận số tiền vay 40.000.000 đồng. Theo bà L trình bày thì thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã thỏa thuận giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 50.000.000 đồng, giá trị nhà 100.000.000 đồng nên tổng số tiền là 150.000.000 đồng và Ông Th đã nhận đủ số tiền này. Cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ giá trị quyền sử dụng đất thời điểm chuyển nhượng ở địa phương tại thời điểm chuyển nhượng để đối chiếu và kết hợp với các tài liệu chứng cứ khác để đánh giá toàn diện vụ án, tài sản này là tài sản chung hay riêng, ai có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay đây chỉ là hợp đồng giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác. Cấp sơ thẩm chỉ nhận định việc cụ Tiên và cụ Pha cho tặng nhà đất chỉ nói miệng, không giấy tờ; căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn giữa Ông Th, bà T đăng ký vào năm 2003 và việc cấp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ông Th thì bà T biết nhưng vẫn không khiếu nại và UBND huyện T khẳng định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân Ông Th đứng tên là hoàn toàn phù hợp với thực tế và đúng theo pháp luật. Từ đó, cho rằng nhà đất cho trước khi kết hôn và UBND huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân Ông Th nên Ông Th là người chủ sử dụng đất hợp pháp và có quyền định đoạt là chưa đảm bảo quy định pháp luật.

Việc cấp sơ thẩm để một Hội thẩm nhân dân cấp sơ thẩm tham gia xét xử hai bản án trong cùng một vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và thu thập chứng cứ còn thiếu sót. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của các vị luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích cho của bị đơn và của Kiểm sát viên. Căn cứ khoản 3 Điều 308 và khoản 2 Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 03 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

7. Bản án dân sự phúc thẩm số 117/2023/DS-PT ngày 28/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp về kiện đòi lại tài sản.

Nội dung hủy án:

(i) Đối với số tiền lương còn lại năm 2013: Theo bảng kê thanh toán tiền lương năm 2013 của HTX ngày 30/9/2014 thì tiền lương của ông D năm 2013 là 57.172.000đ. Bản án HSPT số 256 ngày 05/8/2016 có ghi nhận tại trang 10 như sau: “…Như vậy bị cáo D đã chiếm đoạt tiền HTX các khoản trên tổng cộng là 274.802.889đ gồm (14.000.000đ + 14.000.000đ + 153.784.000đ + 80.000.000đ + 13.018.889đ) nhưng trừ vào tiền lương năm 2013 là 12.172.000đ, tiền lương năm 2014 là 43.000.000đ, bị cáo bị truy tố chiếm đoạt số tiền là 219.627.889đ”. Như vậy một phần tiền lương năm 2013 được trừ vào phần chiếm đoạt tài sản, làm giảm số tiền chiếm đoạt của ông D.

Đối với phần tiền lương còn lại là 45.000.000đ (57.172.000đ- 12.172.000đ), bản án hình sự không đề cập đến, tức là không liên quan đến số tiền chiếm đoạt hay khắc phục hậu quả. Ông D có cung cấp chứng cứ là 03 phiếu tạm ứng lương năm 2013 nhưng ông cho rằng HTX giả mạo chữ ký của ông. Lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải thu thập chứng cứ làm rõ sự việc để chấp nhận hay bác yêu cầu của đương sự nhưng cấp sơ thẩm lại đình chỉ là không đúng với quy định.

(ii) Đối với phần tiền lãi của 200.000.000đ là 21.000.000đ:

Tại phiên tòa phúc thẩm, HTX cho rằng chỉ còn nợ ông D 06 tháng tiền lãi và cung cấp thêm chứng cứ mới về thời gian đã trả cho ông D số tiền gốc 200.000.000đ. Lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ hay tự mình thu thập tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án hình sự đã được xét xử năm 2016 theo quy định tại Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng cấp sơ thẩm đã không làm rõ tình tiết vụ việc mà tuyên chấp nhận yêu cầu này là chưa đủ căn cứ và làm mất quyền kháng cáo của đương sự.

Từ đó, Hội đồng xét xử thấy rằng: Các yêu cầu trên của đương sự có phát sinh tài liệu, chứng cứ mới ở cấp phúc thẩm làm thay đổi nội dung của vụ án cho nên cấp phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được, do đó hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm là phù hợp với khoản 1 Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự.

8. Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2022/DS-PT ngày 24/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng về tranh chấp hợp kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất.

Nội dung hủy án:

(i) Nguyên đơn khởi kiện lần đầu tiên tại Toà án là đòi lại diện tích đất 463m2 và huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bị đơn. Quá trình giải X vụ án, nguyên đơn rút yêu cầu kiện đòi tài S, thay đổi yêu cầu khởi kiện là chia di S thừa kế. Tuy nhiên, do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu và thay đổi sau thời điểm Toà án mở phiên họp nên Toà án không giải X đối với yêu cầu chia di S thừa kế. Toà án hai cấp đã xét xử đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc đòi lại diện tích đất 463m2; huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng cấp ngày 28/9/2007 cho hộ ông Vũ Văn C. Bản án dân sự phúc thẩm số 210/2020/DS-PT ngày 13/10/2020 của Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có hiệu lực thi hành. Sau đó, ông B tiếp tục khởi kiện đòi lại diện tích đất 463m2, quá trình Toà án cấp sơ thẩm giải X, bị đơn yêu cầu: Toà án công nhận “Đơn xin nhượng đất” và “Đơn xin nhượng nhà” lập cùng ngày 02/8/1989 giữa người chuyển nhượng là cụ Đ1 với người làm đơn là bà Vũ Thị Suy (X). “Đơn xin nhượng bán tài S và giao quyền sử dụng đất ngày 20/6/1996” giữa người bán là cụ Đ1 và người mua là ông Vũ Văn C để từ đó công nhận diện tích đất 463m2 và toàn bộ tài S trên đất T2ộc quyền sử dụng và quyền sở hữu của vợ chồng ông C. Toà án cấp sơ thẩm xác định đây là yêu cầu phản tố của bị đơn nên khi nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện thì xác định bị đơn trở thành nguyên đơn và ngược lại. Tại Bản án Dân sự sơ thẩm số 09/2021/DS-ST ngày 16/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện K đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Yêu cầu của ông C thực chất chỉ là quan điểm của ông C đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không làm phát sinh quan hệ pháp luật tranh chấp. “Đơn xin nhượng đất”, “Đơn xin nhượng nhà” cùng lập ngày 02/8/1989 giữa người chuyển nhượng là cụ Đ1 với người làm đơn là bà Vũ Thị Suy; “Đơn xin nhượng bán tài S và giao quyền sử dụng đất ngày 20/6/1996” giữa người bán là cụ Đ1 và người mua là ông Vũ Văn C chính là tài liệu, chứng cứ để đánh giá, xác định có hay không việc đã chuyển nhượng đất từ cụ Đ1 cho bà X, diện tích và vị trí diện tích đất đã chuyển nhượng để từ đó chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Việc các bên tranh chấp cùng một tài S, việc xem xét, giải X yêu cầu của nguyên đơn cũng chính là xem xét, giải X yêu cầu của bị đơn. Toà án cấp sơ thẩm xác định yêu cầu của ông C là yêu cầu phản tố của bị đơn là chưa đúng với quy định tại Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nếu những tài liệu, chứng cứ này hợp pháp và có căn cứ thì bị đơn chỉ cần đến cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai mà không cần yêu cầu Toà án giải X.

(ii) “Đơn xin nhượng đất”, “Đơn xin nhượng nhà” cùng lập ngày 02/8/1989 giữa người chuyển nhượng là cụ Đ1 với người làm đơn là bà Vũ Thị Suy (X), được bà X cho biết là do bà X tự viết dưới sự hướng dẫn và chứng kiến của Trưởng thôn thời điểm đó là ông Hồi. Tuy nhiên, ông Hồi đã chết và tại hai đơn này không có chữ ký hay nội dung nào phản ánh có người làm chứng. Trong khi đó, các con của cụ Đ1 cho biết là cụ Đ1 không biết chữ, không có đương sự nào nộp được mẫu chữ ký của cụ Đ1 nên không tiến hành giám định được. Các đơn xin chuyển nhượng là để gửi Uỷ ban xã MT nhưng Uỷ ban xã cho biết không biết việc này; những người làm chứng sống cùng thôn cho biết họ chỉ nghe nói lại, không ai biết và trực tiếp chứng kiến việc mua bán này. Đơn chuyển nhượng nhà, đất không có thoả T2ận về giá chuyển nhượng, vị trí đất cụ thể như thế nào. Bà X trình bày giá chuyển nhượng đất là 01 tấn thóc nhưng đơn xin chuyển nhượng nêu trên không có nội dung này và không có tài liệu nào chứng minh có việc này. Thời điểm chuyển nhượng đất cụ S3 vẫn còn sống nhưng không có chữ ký của cụ S3. Trong khi đó các con của cụ Đ1, cụ S3 xác định cụ Đ1 không biết chữ và chỉ cho bà X mượn đất, không có nhà (bà X cũng xác nhận không có nhà) vì khi đó bà X hoàn cảnh rất khó khăn. Đối với “Đơn xin nhượng bán tài S và giao quyền sử dụng đất ngày 20/6/1996” giữa người bán là cụ Đ1 và người mua là ông Vũ Văn C, được ông C cho biết là do ông Hồi viết hộ, hiện ông Hồi đã chết; chữ ký tại đơn này có đúng của cụ Đ1 hay không thì ông C không xác định được. Đơn này cũng gửi Uỷ ban xã MT nhưng Uỷ ban xã xác định không biết về việc này. Ông Phạm Văn Thể là trưởng thôn xác nhận tại đơn này: “Xác nhận đơn trình bày của bà Đ1 và anh C là đúng. Vậy kính chuyển lên các cấp có thẩm quyền xét duyệt và giải X”, nhưng nay ông Thể xác nhận đơn này là do ông C mang đến, ông Thể không chứng kiến việc mua bán giữa họ và không xác định được có đúng chữ ký của cụ Đ1 hay không và do nể tình làng, nghĩa xóm mà xác nhận cho ông C như vậy. Uỷ ban xã xác nhận vị trí diện tích đất mô tả trong đơn ngày 20/6/1996 không đúng thực tế. Uỷ ban xã cũng xác nhận một phần diện tích đất đã cấp giấy chứng nhận cho ông C có nguồn gốc là đất của cụ Đ1 đứng tên tại sổ mục kê năm 1985. Do vậy, “Đơn xin nhượng đất”, “Đơn xin nhượng nhà” cùng lập ngày 02/8/1989 giữa người chuyển nhượng là cụ Đ1 với người làm đơn là bà Vũ Thị Suy (X); “Đơn xin nhượng bán tài S và giao quyền sử dụng đất ngày 20/6/1996” giữa ông C và cụ Đ1 không đảm bảo tính khách quan, không có cơ sở để xác định cụ Đ1 đã ký vào các văn bản này nên không có căn cứ để xác định cụ Đ1 đã chuyển nhượng đất cho bà X và ông C. Cơ quan có thẩm quyền đã căn cứ vào “Đơn xin nhượng bán tài S và giao quyền sử dụng đất ngày 20/6/1996” để thiết lập hồ sơ và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông C là không đúng quy định của pháp luật nên Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2019/DS-ST ngày 27/9/2019 của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng và Bản án dân sự phúc thẩm số 210/2020/DS-PT ngày 13/10/2020 của Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã tuyên huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông C ngày 28/9/2007 là có căn cứ. Khi tuyên huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ ông C thì hai bản án nêu trên đã nhận định và đánh giá về các tài liệu bị đơn xuất trình là các văn bản giao dịch chuyển nhượng đất giữa bà X, ông C với cụ Đ1 là không có căn cứ có nghĩa là đã xem xét, giải X chính yêu cầu của ông C. Bản án dân sự phúc thẩm số 210/2020/DS-PT ngày 13/10/2020 đã có hiệu lực thi hành thì nay Bản án Dân sự sơ thẩm số 09/2021/DS-ST ngày 16/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng tiếp tục đánh giá lại và đã đánh giá tài liệu, chứng cứ không khách quan, không toàn diện nên đã có X định ngược lại với X định Bản án dân sự phúc thẩm số 210/2020/DS-PT ngày 13/10/2020 đã có hiệu lực pháp luật là không đúng quy định của pháp luật. Lẽ ra, khi nguyên đơn - ông B rút đơn khởi kiện thì Toà án cấp sơ thẩm cần đình chỉ giải X vụ án. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý, giải X yêu cầu phản tố của bị đơn – ông C là không đúng; X định của bản án sơ thẩm ngược lại với X định của Bản án dân sự phúc thẩm số 210/2020/DS-PT ngày 13/10/2020 đã có hiệu lực pháp luật là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn nên cần chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Văn B, huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải X vụ án – Điều 311, điểm g khoản 1 Điều 217, điểm a, c khoản 1 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông B có quyền khởi kiện lại vụ án.

9. Bản án dân sự phúc thẩm số 106/2023/DS-PT ngày 24/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Nội dung hủy án:

(i) Theo đơn tố giác tội phạm của bà Huỳnh Võ Linh N, cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận N đã tiến hành thu thập, xác minh (Hồ sơ thể hiện tại các bút lục từ 129 đến 215). Cùng với các tài liệu, chứng cứ đã thẩm tra cho thấy, bà Phan Thị Phương L1 cùng các đối tượng liên quan có việc gian dối để được cấp giấy xác nhận độc thân, đóng giả và giả mạo chữ ký của bà Huỳnh Võ Linh N để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Hoàng Thảo Lan nhằm mục đích vay tiền. Sau đó, tiếp tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho ông Nguyễn Việt Tr. Hành vi trên có dấu hiệu tội phạm hình sự.

(ii) Qua quá trình thu thập, xác minh nêu trên, đến nay Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận N đã có đánh giá thể hiện tại Văn bản số 101/CSĐT (ĐCSKT) ngày 14/3/2023. Theo đó, Cơ quan cảnh sát điều tra xác định vụ việc có dấu hiệu của tội phạm “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận N để tiếp tục điều tra theo quy định pháp luật. Do vậy, việc tạm dừng giải quyết vụ án dân sự là cần thiết.

Từ các nhận định trên cho thấy, việc Tòa án tiếp tục xét xử vụ án về dân sự, xác định quyền lợi, nghĩa vụ các bên sẽ cản trở hoạt động tố tụng hình sự và có thể bỏ lọt tội phạm. Do đó, cần hủy bản án sơ thẩm. Việc hủy bản án sơ thẩm là khách quan, không có lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm. Quá trình giải quyết sơ thẩm, Thẩm phán được phân công cũng đã thể hiện quan điểm như trên tại Văn bản số 702/CV-TA ngày 30/6/2020.

Khi hủy bản án sơ thẩm, hồ sơ được chuyển về Tòa án nhân dân quận N để tạm đình chỉ chờ kết quả của tố tụng hình sự. Tài liệu trong hồ sơ được chuyển cần được thực hiện theo tố tụng.

10. Bản án dân sự phúc thẩm số 246/2024/DS-PT ngày 09/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất.

Nội dung hủy, sửa án:

(i) Phạm vi giải quyết: Theo đơn khởi kiện ngày 18/01/2018, nguyên đơn bà Đoàn Phước B yêu cầu bị đơn trả lại 4.349 m2 thuộc các thửa 393, 441, 442, 502, 505, 727 tờ bản đồ 27 theo GCNQSDĐ số vào sổ H 01061 và thửa 566 tờ bản đồ 27, xã T, huyện B theo GCNQSDĐ số vào sổ H 01064 do UBND huyện T (nay là Bắc Tân U) cấp cho bà Đoàn Thị V1 ngày 25/12/2008, nhưng theo đo đạc thực tế, 07 (bảy) thửa đất tranh chấp có diện tích 3.830,3m2. Trong quá trình tham gia tố tụng, bà B và những người thừa kế của bà B không có đơn khởi kiện bổ sung và Tòa án cũng không có thông báo thụ lý bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuy nhiên, Bản án sơ thẩm đã xác định nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại các thửa đất khác ngoài 07 thửa đất nêu trên, cụ thể như sau: diện tích 234,7m2 thuộc thửa 565; diện tích 2,1m2 thuộc thửa 724; diện tích 20,7m2 thuộc thửa 270, tờ bản đồ 28; diện tích 129m2 thuộc thửa 333; diện tích 32,9m2 thuộc thửa 1, tờ bản đồ 27 tại xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương. Theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 64 – 2018 ngày 23/4/2018 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện B: các thửa đất 565, 724 thể hiện trong GCNQSDĐ cấp cho bà C; thửa 270 thể hiện trong GCNQSDĐ cấp cho ông Đặng Minh C2 (ông C2 không tham gia tố tụng); thửa 333 thể hiện trong GCNQSDĐ cấp cho bà Nguyễn Thị Thùy D1. Như vậy, các thửa đất 565, 724, 270, 333 và 01 ngoài phạm vi khởi kiện ban đầu của bà B và các thửa đất 565, 724, 270, 333 thuộc quyền sử dụng của người khác, không phải của bà B và của bà V1. Trường hợp chủ sử dụng các thửa đất 565, 724, 270, 333 và bà B (nay là những người thừa kế của bà B) có tranh chấp thì các bên có quyền khởi kiện và được giải quyết tại một vụ kiện khác. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cũng thừa nhận chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết đối với 07 thửa đất như đã thể hiện trong đơn khởi kiện ban đầu của bà B. Do đó, bản án sơ thẩm tuyên buộc bị đơn phải trả lại cho nguyên đơn một phần diện tích đất thuộc các thửa 565, 724, 270, 333 và 01 là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự vì đã giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu của nguyên đơn và không đúng chủ thể. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần phải hủy một phần bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết đối với các thửa đất 565, 724, 270, 333 và 01.

(ii)Về nội dung:

Quá trình sử dụng đất cũng được các bên trình bày mâu thuẫn: Theo nguyên đơn, bà B là người được cha, mẹ tặng cho quyền sử dụng đất và cho người khác thuê từ năm 1979, nhưng không được bị đơn thừa nhận và không có văn bản tặng cho, phân chia hoặc chứng cứ nào khác để chứng minh. Tình tiết các thửa đất được đưa vào tập đoàn sản xuất và được tập đoàn trả lại cũng không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh. Trong khi đó, ông Đoàn Văn Q (em ruột của ông T5 và bà B) lại trình bày nguồn gốc đất do ông Q khai hoang, sử dụng một thời gian rồi giao lại cho ông T5 tiếp tục sử dụng. Người thuê đất, ông Trần Văn B1 cũng xác nhận thuê đất của ông T5, bà V1 và việc thuê đất, trả tiền thuê có giấy tờ chứng minh rõ ràng. Tài sản trên đất hiện nay là các cây tràm do ông B1, người thuê đất trồng.

Căn cứ vào hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ thì thấy rằng bà Đoàn Phước B không đăng ký và không được cấp quyền sử dụng 07 thửa đất tranh chấp: 393, 441, 442, 502, 505, 727 và 566 tờ bản đồ 27, xã T, huyện B. Kết quả giám định ban đầu của Phòng K Công an tỉnh B kết luận “Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất”, đề ngày 09/3/1998 là do bà Đoàn Phước B ký tên, nhưng tại Kết luận giám định số 271/C09B, ngày 27/12/2018 của Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh – V3 kết luận: Không đủ cơ sở để kết luận chữ ký mang tên Đoàn Phước B dưới mục “người sử dụng đất ký” trên tài liệu “Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất” đề ngày 09/03/1998. Các kết quả giám định khác cho thấy chữ viết trên các hồ sơ đăng ký đều không phải của bà B và ông T5 hoặc không thể xác định được người viết. Tuy nhiên, kết luận giám định chữ ký, chữ viết của bà B và ông T5 trên các đơn đăng ký quyền sử dụng đất cũng không có ý nghĩa quyết định tính hợp pháp của việc cấp GCNQSDĐ. Các đơn đăng ký có thể được người khác (cán bộ địa chính) ghi hộ. Vấn đề cần chứng minh trong vụ việc này là ý chí thực của các bên như thế nào đối với các đơn đăng ký và GCNQSDĐ được cấp.

Xét thấy, việc đăng ký kê khai để cấp GCNQSDĐ đã được UBND xã thông báo công khai đến các hộ gia đình, trong đó bà Đoàn Phước B, ông Đoàn Văn T5 và những người anh, em ruột trong gia đình đã tham gia đăng ký, có tên trong sổ địa chính và được cấp GCNQSDĐ như phân tích tại mục [2.4] nêu trên. Khi nhận GCNQSDĐ, bà B đương nhiên phải biết và buộc phải biết số lượng thửa đất và diện tích đất được cấp, nếu thấy còn thiếu so với số lượng thửa và diện tích đất đã đăng ký và đang sử dụng thì có quyền khiếu nại. Theo lời trình bày của bà B và sau này những người thừa kế của bà B đều cho rằng ông T5 là người đăng ký đất thay bà B và cố ý bỏ sót 07 thửa đất; khi nhận GCNQSDĐ thì bà B đã phát hiện ra thiếu đất và có đòi ông T5 trả lại, ông T5 có hứa trả nhưng sau đó không trả. Tuy nhiên, phía bị đơn không thừa nhận có sự việc này và nay phía nguyên đơn cũng không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh có việc phản đối hoặc tranh chấp với ông T5 vào thời điểm ông T5 (và kể cả khi bà V1) được cấp GCNQSDĐ, không có việc ông T5 và bà V1 cam kết trả lại đất. Điều này thể hiện bà B và ông T5 đã đăng ký kê khai và được cấp GCNQSDĐ đối với các thửa đất đúng với ý chí của mình.

Bản án sơ thẩm chủ yếu nhận định dựa vào lời khai của các bên đương sự và người làm chứng để liên kết các tình tiết, sau đó suy đoán và kết luận các thửa đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà B có nguồn gốc được cha, mẹ tặng cho; không công nhận hồ sơ đăng ký và cấp GCNQSDĐ của ông T5 là không có căn cứ. Công văn số 410/UBND-ĐC ngày 08/10/2018 của UBND xã T kèm theo là Biên bản làm việc ngày 01/10/2018 giữa đại diện UBND xã T và những người sinh sống tại ấp A, xã T cũng chỉ cung cấp thông tin dựa trên lời khai của một số người dân sinh sống tại khu vực, trong khi những lời khai này không được chứng minh một cách rõ ràng bằng các chứng cứ cụ thể. UBND xã T cũng không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của đương sự ngoài hồ sơ đăng ký và cấp GCNQSDĐ mà Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã thu thập được như đã được phân tích tại mục [2.4] nêu trên. Các đoạn ghi âm do đương sự cung cấp không rõ hoàn cảnh xuất xứ, không công khai minh bạch khi ghi âm và nội dung trao đổi của những người trong các đoạn ghi âm là rời rạc, không rõ ràng, không thể chứng minh được quyền sử dụng đất hợp pháp.

(iii) Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được UBND xã T chứng thực ngày 24/11/2008, nhưng theo Kết luận giám định số 182/GĐ-PC54 ngày 28/6/2018 của Phòng K - Công an tỉnh B (bút lục 336) và lời khai của ông Trần Hữu T1 thì ông T1 đã giả chữ ký, chữ viết, dấu vân tay của ông Đoàn Văn T5 trong “Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng” đất để hỗ trợ bà V1 làm thủ tục sang tên GCNQSDĐ. Ông T1 là con ruột bà B, là người biết (buộc phải biết) nguồn gốc sử dụng các thửa đất của ông T5, nhưng vẫn hỗ trợ bà V1 làm hồ sơ chuyển nhượng là đã thể hiện ý chí thừa nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của ông T5 và sau này là bà V1. Việc ông T1 khai rằng ông hỗ trợ bà V1 làm thủ tục chuyển nhượng là do bà V1 có hứa hẹn khi nào có được GCNQSDĐ sẽ làm thủ tục tách trả lại 07 thửa đất cho bà B và vì tin tưởng bà V1 là chị trong dòng họ nên ông T1 đồng ý chỉ là lời khai đơn phương, không được bà V1 thừa nhận. Bản án sơ thẩm nhận định có sự thỏa thuận của bà V1 sẽ tách trả lại 07 thửa đất tranh chấp cho bà B là hoàn toàn không có căn cứ và có tính chủ quan.

Góp ý