Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (bột ớt) giữa một công ty của Tây Ban Nha với một công ty của Phần Lan xét xử tại Tòa án Tây Ban Nha
1. Các bên tranh chấp
Nguyên đơn: Bên mua (Phần Lan)
Bị đơn: Bên bán (Tây Ban Nha)
Cơ quan giải quyết tranh chấp: Tòa án Tây Ban Nha
2. Diễn biến tranh chấp
Bị đơn Tây Ban Nha (bên bán) đã ký hợp đồng với nguyên đơn Phần Lan (bên mua) để bán 40 tấn bột ớt – loại dùng để trộn vào hỗn hợp các gia vị khác để bán tiếp. Hợp đồng quy định rằng bột cần được xử lý bằng hơi nước để giảm các loại vi khuẩn có trong bột. Tuy nhiên, các xét nghiệm mẫu trong phòng thí nghiệm xác định rằng bột đã được xử lý bằng chiếu xạ thay vì hơi nước. Theo quy định của Liên minh châu Âu áp dụng cho Phần Lan và Tây Ban Nha, tất cả các sản phẩm tiêu dùng được xử lý bằng chiếu xạ phải được đánh dấu chiếu xạ trên bao bì của hàng hóa. Do bên mua cho rằng người tiêu dùng Phần Lan không muốn mua các sản phẩm được xử lý bằng chiếu xạ vì bột sẽ không đảm bảo mục đích mà họ dự định sử dụng nên đã kiện bên bán ra Tòa vì đã cung cấp hàng hóa không phù hợp. Bên bán đã lập luận rằng bên mua đã không thông báo đúng hạn về việc hàng hóa không phù hợp và do đó được coi là đã chấp nhận hàng hóa, do đó đã không chấp thuận yêu cầu bồi thường thiệt hại của bên mua.
3. Phân tích và phán quyết của Tòa án Các vấn đề của vụ án này là:
- Bên bán có vi phạm Điều 35 (1) CISG hay không trong trường hợp bột được xử lý bằng chiếu xạ;
- Trong trường hợp xác định là hàng hóa không phù hợp theo Điều 35 CISG thì liệu bên mua đã thông báo đúng hạn về việc này cho bên bán hay chưa;
- Nếu người bán vi phạm hợp đồng do giao hàng hóa không phù hợp, điều này đã gây ra thiệt hại cho người mua chưa và thiệt hại của việc chiếu xạ là gì.
Tòa án đã phán quyết rằng mặc dù hợp đồng chỉ quy định bột phải xử lý hơi nước mà không loại trừ cụ thể việc xử lý chiếu xạ nhưng cả người mua và người bán đều có kinh nghiệm trong lĩnh vực này đủ để biết đến quy định của Liên minh Châu Âu về việc chiếu xạ hàng hóa. Do đó, người bán phải tính được việc hàng hóa phải phù hợp với quy định của Liên minh Châu Âu nên việc hợp đồng có quy định việc không được chiếu xạ hay không không phải là vấn đề quan trọng. Do đó, tòa kết luận rằng hàng hóa không phù hợp với hợp đồng và người bán đã vi phạm hợp đồng theo Điều 35 (1).
Về vấn đề người mua có thông báo kịp thời với người bán về sự không phù hợp của hàng hóa, tòa án tuyên bố rằng vì người mua đã liên lạc với người bán ngay sau khi biết được sự không phù hợp, tuân thủ theo quy định bởi các phòng thí nghiệm được công nhận bởi Chính phủ, người mua đã đưa ra thông báo trong một thời gian hợp lý theo quy định của Điều 39 (1) CISG.
Về thiệt hại, tòa án, trích dẫn Điều 74 CISG, trước tiên kết luận rằng trong việc xác định thiệt hại cần phải trên cơ sở xác định lợi ích kinh tế mà bên bị thiệt hại sẽ có nếu hợp đồng được thực hiện đúng. Do đó, tòa án tuyên bố rằng số tiền bồi thường thiệt hại có thể cao hơn giá của hợp đồng. Theo tòa án, người bán biết rằng người mua sẽ trộn bột vào các sản phẩm của chính người mua để bán lại cho khách hàng của người mua. Do đó, người bán phải hiểu tại thời điểm hợp đồng được ký kết rằng người mua sẽ không thể giao hàng cho khách hàng nếu người bán giao hàng không phù hợp và việc vi phạm hợp đồng sẽ gây thiệt hại cho người mua. Trên cơ sở này, người mua đã yêu cầu bồi thường thiệt hại gây ra do người mua phải thu hồi các sản phẩm từ các khách hàng của mình, các chi phí do mua lại các sản phẩm bị nhiễm độc từ khách hàng của mình, các chi phí tiêu hủy hàng hóa bị nhiễm độc và chi phí hàng tồn kho liên quan và chi phí liên quan đến việc kiểm tra vấn đề bao gồm tiền lương, chi phí đi lại, chi phí vận chuyển hàng hóa, chi phí phân tích hóa học và chi phí tiêu hủy. Tòa án xác định rằng mỗi vật phẩm mà người mua yêu cầu đều có thể thu hồi được theo Điều 74 CISG. Và Tòa án cũng đã xem xét và xác định rằng trong vụ việc này người bán đã không gặp phải sự cản trở vượt quá tầm kiểm soát của họ để thực hiện hợp đồng theo Điều 79 CISG cũng như việc người mua đã không có những biện pháp để giảm nhẹ thiệt hại theo Điều 77 CISG do đó, tòa án đã chỉ định cho người mua được hưởng một phần tiền bồi thường thiệt hại hợp lý.
*Lưu ý: Căn cứ tham khảo dựa trên các Điều 35, 39, 74, 77 và 79 CISG.
“Ðiều 35
1. Người bán giao hàng đúng số lượng, phẩm chất và mô tả như quy định trong hợp đồng, và đúng bao bì hay đóng gói như hợp đồng yêu cầu.
2. Ngoại trừ những trường hợp đã được các bên thỏa thuận khác, hàng hóa bị coi là không phù hợp với hợp đồng nếu:
a. Hàng hóa không thích hợp cho các mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng loại vẫn thường đáp ứng.
b. Hàng không thích hợp cho bất kỳ mục đích cụ thể nào mà người bán đã trực tiếp hoặc gián tiếp biết được vào lúc ký hợp đồng, trừ trường hợp nếu căn cứ vào các hoàn cảnh cụ thể có thể thấy rằng không dựa vào ý kiến hay sự phán đoán của người bán hoặc nếu đối với họ làm như thế là không hợp lý.
c. Hàng không có các tính chất của hàng mẫu hoặc kiểu dáng mà người bán đã cung cấp cho người mua.
d. Hàng không được đóng phong bì theo cách thông thường cho những hàng cùng loại hoặc, nếu không có cách thông thường, thì bằng cách thích hợp để giữ gìn và bảo vệ hàng hoá đó
3. Người bán không chịu trách nhiệm về việc giao hàng không đúng hợp đồng như đã nêu trong các điểm từ a đến d của khoản trên nếu như người mua đã biết hoặc không thể không biết về việc hàng không phù hợp vào lúc ký kết hợp đồng.”
“Ðiều 39
1. Người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng hóa không phù hợp hợp đồng nếu người mua không thông báo cho người bán những tin tức về việc không phù hợp đó trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã phát hiện ra sự không phù hợp đó.
2. Trong mọi trường hợp, người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng không phù hợp với hợp đồng nếu họ không thông báo cho người bán biết về việc đó chậm nhất trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hàng hóa đã thực sự được giao cho người mua trừ phi thời hạn này trái ngược với thời hạn bảo hành quy định trong hợp đồng.”
“Ðiều 74
Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết.”
“Ðiều 77
Bên nào viện dẫn sự vi phạm hợp đồng của bên kia thì phải áp dụng những biện pháp hợp lý căn cứ vào các tình huống cụ thể để hạn chế tổn thất kể cả khoản lợi bị bỏ lỡ do sự vi phạm hợp đồng gây ra. Nếu họ không làm điều đó, bên vi phạm hợp đồng có thể yêu cầu giảm bớt một khoản tiền bồi thường thiệt hại bằng với mức tổn thất đáng lẽ đã có thể hạn chế được.”
và
“Ðiều 79
1. Một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc ký kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục các hậu quả của nó.
2. Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực hiện điều đó thì bên ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp:
a. Ðược miễn trách nhiệm chiếu theo quy định của khoản trên, và.
b. Nếu người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu các quy định của khoản trên được áp dụng cho họ.
3. Sự miễn trách được quy định tại điều này chỉ có hiệu lực trong thời kỳ tồn tại trở ngại đó.
4. Bên nào không thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải báo cáo cho bên kia biết về trở ngại và ảnh hưởng của nó đối với khả năng thực hiện nghĩa vụ. Nếu thông báo không tới tay bên kia trong một thời hạn hợp lý từ khi bên không thực hiện nghĩa vụ đã biết hay đáng lẽ phải biết về trở ngại đó thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do việc bên kia không nhận được thông báo.
5. Các sự quy định của điều này không cản trở từng bên được sử dụng mọi quyền khác ngoài quyền được bồi thường thiệt hại chiếu theo Công ước này.”