Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (giấy mỹ thuật) giữa một công ty của Hàn Quốc với một công ty của Trung Quốc xét xử tại Ủy ban Trọng tài Thương mại và Kinh tế quốc tế Trung Quốc

Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (giấy mỹ thuật) giữa một công ty của Hàn Quốc với một công ty của Trung Quốc xét xử tại Ủy ban Trọng tài Thương mại và Kinh tế quốc tế Trung Quốc

1. Các bên tranh chấp

Nguyên đơn: Bên bán là một công ty Hàn Quốc.

Bị đơn: Bên mua là một công ty Trung Quốc.

Cơ quan giải quyết tranh chấp: Ủy ban Trọng tài Thương mại và Kinh tế quốc tế Trung Quốc.

2. Diễn biến tranh chấp

Bên bán là một công ty Hàn Quốc, đã ký kết một hợp đồng mua bán 600 tấn giấy mỹ thuật với bên mua, là một công ty Trung Quốc. Sau khi cấp thư tín dụng (L/C), tàu chở hàng đã bị đắm và toàn bộ hàng hóa bị mất. Sau đó, ngân hàng phía bên bán nhận được thông báo từ chối thanh toán tiền hàng với lý do các các chứng từ do bên bán cung cấp không phù hợp với L/C. Bên mua đã từ chối thanh toán tiền hàng, và bên bán khởi kiện bên mua ra tòa trọng tài. Đáp lại, bên mua cũng khởi kiện bên bán ra tòa trọng tài. Tòa trọng tài đã quyết định sẽ xem xét đồng thời cả hai yêu cầu khởi kiện và gửi thông báo tới các bên tranh chấp.

Lập luận của bên bán

Sau khi ký kết hợp đồng, bên mua đã chỉ định công ty A của Hồng Công, Trung Quốc (công ty A) mở một thư tín dụng không thể hủy ngang với bên bán là người thụ hưởng, có giá trị đến ngày 28/12/1995. Cùng thời điểm đó, công ty A mua bảo hiểm hàng hóa của công ty bảo hiểm tập đoàn Zhongyin. Bên bán đã xếp 600.898 tấn hàng lên tàu ngày 15/12/1995. Tổng giá trị lô hàng là 594.889,02 USD. Ngày 19/5/1995, bên bán gửi toàn bộ chứng từ cho Ngân hàng nhà nước Trung Quốc H.K., ngân hàng đã phát hành L/C, bằng giao thức OCS. Cùng ngày, tàu chở hàng M.V. Samsun Creator (thuộc công ty vận tải SAMSUN) bị đắm và toàn bộ hàng hóa đã bị mất. Công ty SAMSUN đã thông tin về tai nạn cho bên bán ngày 19 cũng như ngày 20/12/1995. Bên bán đã thông báo cho bên mua ngày 19/12/1995 và yêu cầu bên mua thực hiện các biện pháp để giảm thiểu thiệt hại. Ngày 20/12/1995, bên bán thông báo cho công ty A việc tàu đã bị đắm. Ngày 29/12/1995, ngân hàng của bên bán, ngân hàng HANA Hàn Quốc nhận được thông báo từ chối thanh toán từ ngân hàng cấp L/C, với lý do các chứng từ do bên bán cung cấp không phù hợp với L/C. Ngân hàng HANA đã trả lời lại ngân hàng cấp L/C rằng sự khác biệt giữa các chứng từ cung cấp và L/C không đủ để đảm bảo cho ngân hàng phát hành L/C từ chối thanh toán và liên tục yêu cầu ngân hàng phát hành L/C thực hiện thanh toán theo L/C ngay lập tức nhưng bị từ chối. Sau đó, bên bán đã viết một số thư cho công ty A và bên mua kêu gọi thanh toán và tìm cách thu hồi lại từ công ty bảo hiểm nhưng đã bị bên mua từ chối.

Bên bán cho rằng mình đã giao hàng theo hợp đồng và hàng đã được chuyển lên tàu, điều đó có nghĩa bên bán đã hoàn thành nghĩa vụ của mình theo hợp đồng và rủi ro tổn thất đã được chuyển cho bên mua. Theo Điều 66 của Công ước CISG: “Mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa xảy ra sau thời điểm rủi ro được chuyển cho bên mua không giải phóng bên mua khỏi nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng, trừ trường hợp việc mất mát hoặc hư hỏng đó là do lỗi của bên bán.”, do đó bên mua không có lý do để từ chối thanh toán tiền hàng. Bên bán cũng lập luận rằng ngay cả việc có sự khác biệt giữa chứng từ và L/C cũng không ngăn cản được việc bên bán phải thanh toán cho bên mua. Với những lập luận đó, bên bán yêu cầu tòa trọng tài ra phán quyết:

Buộc bên mua thanh toán tiền hàng theo hợp đồng số tiền 594.889,02 USD.

Buộc bên mua thanh toán tiền lãi 135.503,88 USD vì lý do chậm thanh toán trong hai giai đoạn: (1) từ 18/12/1995 (ngày bên bán giao các chứng từ) đến ngày 28/7/1996, với mức lãi suất là 18,5%, tương đương 67.841,79 USD.

Khoản lãi suất này bên bán đã phải thanh toán cho bên mua như một khoản tiền phạt; và (2) từ 19/7/1996 (ngày bên bán thanh toán cho ngân hàng HANA) đến 12/4/1997, với mức lãi suất là 14,5% (lãi suất do bên bán đặt ra), tương đương 67.662,09 USD.

Bên mua phải chịu chi phí luật sư của bên bán là 18.000 USD; và  Bên mua phải chịu toàn bộ chi phí trọng tài.

Lập luận của bên mua

Bên mua cho rằng mình đã thực hiện mọi nghĩa vụ theo hợp đồng, khi chỉ định công ty A thực hiện việc cấp L/C với bên bán là người thụ hưởng vào ngày 14/12/1995. Việc cấp L/C cũng như việc L/C đã được chấp thuận bởi bên bán cho thấy nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của bên mua đã hoàn thành. Do đó, bên mua hoàn toàn không vi phạm hợp đồng, mà ngược lại, bên bán phải chịu trách nhiệm vì khiến L/C bị vô hiệu. Theo bên mua, ngân hàng trung ương Trung Quốc H.K. đã nhận được tất cả chứng từ bên bán gửi qua email và nhận thấy khác biệt nghiêm trọng giữa chứng từ và L/C. Ngày 27/12/1995, ngân hàng này đã thông báo cho bên bán về sự khác biệt này và đã bị bên bán phủ nhận. Sau đó, ngân hàng này đã gửi thông báo từ chối thanh toán L/C cho ngân hàng HANA. Ngân hàng cấp L/C đã kiểm tra các chứng từ và đưa ra thông báo trong vòng hai ngày làm việc, phù hợp với quy định pháp luật. Do đó, chính bên bán phải chịu trách nhiệm vì đã khiến L/C bị vô hiệu do đã đưa các chứng từ khác biệt.

Theo bên mua, L/C là một phần tách biệt của hợp đồng. Khi yêu cầu thanh toán theo L/C bị từ chối, bên bán không có quyền yêu cầu thanh toán từ phía bên mua. Bên mua đã dẫn chiếu Bộ quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ (UCP) để chỉ ra rằng L/C là hợp đồng giữa ngân hàng cấp L/C và người thụ hưởng, tách biệt hoàn toàn với hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc các loại hợp đồng khác. Bên mua không có liên hệ pháp lý nào với L/C. Trên cơ sở nguyên tắc pháp lý của L/C, các chứng từ do bên bán cung cấp phải phù hợp với các điều khoản sử dụng của L/C. Theo luật áp dụng và theo UCP, trường hợp ngân hàng cấp L/C nhận thấy có bất kỳ khác biệt nào giữa L/C và chứng từ, ngân hàng đó có quyền từ chối thanh toán theo L/C. Do vậy, trường hợp yêu cầu thanh toán L/C bị từ chối, bên bán đã mất quyền yêu cầu thanh toán từ bên mua.

Bên mua cũng chỉ ra rằng, việc bên bán yêu cầu thanh toán với lý do rủi ro đã được chuyển cho bên mua là đi ngược lại thực tiễn thương mại quốc tế. Theo bên mua, Công ước CISG và Incoterms 1990 đã chỉ rõ, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và cung cấp các chứng từ. Việc ngân hàng cấp L/C từ chối các chứng từ cho thấy bên bán đã không hoàn thành nghĩa vụ cung cấp chứng từ của mình (dù cho bên bán đã giao hàng, nhưng chỉ nêu lên rằng tàu bị đắm, chứ không cung cấp được báo cáo hàng hải chính thức nào về tai nạn). Về phần mình, khi ngân hàng cấp L/C và người thụ hưởng chấp nhận L/C đó, nghĩa vụ thanh toán của bên mua đã hoàn thành. Việc bên bán yêu cầu thanh toán trực tiếp từ bên mua (khi không thanh toán được từ L/C) được gọi là “L/C đoản mạch” trong thương mại quốc tế, vốn chỉ xảy ra khi: (1) ngân hàng cấp L/C bị phá sản (lúc này bên mua vẫn chịu ràng buộc bởi nghĩa vụ thanh toán) hoặc (2) khi ngân hàng cấp L/C bị phá sản và ngân hàng thương lượng (negotiating bank) thực hiện quyền thu hồi lại tiền của mình từ bên bán. Chỉ trong hai trường hợp này, bên bán mới có thể cung cấp tài liệu cho bên mua và yêu cầu bên mua thanh toán trực tiếp. 

Bên mua cũng nhấn mạnh rằng sau khi yêu cầu thanh toán L/C bị từ chối bởi ngân hàng cung cấp và các chứng từ được trả lại, bên bán đã không thực hiện bất kỳ hành động nào để chuyển quyền sở hữu hàng hóa và vận đơn hàng hóa vẫn do bên bán giữ. Theo luật hiện hành, vận đơn thể hiện quyền sở hữu đối với hàng hóa và quyền sở hữu hàng hóa thay đổi dựa trên việc chuyển giao vận đơn. Việc bên mua chưa nhận được vận đơn cho thấy bên bán đã không hoàn thành nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Do đó, bên mua không có nghĩa vụ phải thanh toán tiền hàng, bên bán đã vi phạm nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng cho bên mua. Do vậy, bên mua yêu cầu tòa trọng tài buộc bên bán bồi thường:

- Tổn thất về lợi nhuận: 915.000 Nhân dân tệ;

- Thiệt hại do bên bán vi phạm hợp đồng: 600.000 Nhân dân tệ;

- Chi phí mở L/C: 30.000 Nhân dân tệ;

- Chi phí luật sư của bên mua: 11.000 Nhân dân tệ; và Chi phí trọng tài.

3. Phân tích và phán quyết của tòa trọng tài

3.1. Phân tích của tòa trọng tài

Các bên không đưa ra quy định về lựa chọn luật áp dụng trong hợp đồng. Dựa trên việc hợp đồng được thành lập ở Trung Quốc và thủ tục trọng tài diễn ra ở Trung Quốc, tòa trọng tài quyết định rằng Luật Hợp đồng kinh tế có yếu tố nước ngoài của Trung Quốc sẽ được áp dụng. Theo Điều 5 của Luật, trường hợp có nội dung không được quy định trong luật Trung Quốc, các thông lệ và thực tiễn thương mại quốc tế sẽ được áp dụng. Thông lệ và thực tiễn thương mại quốc tế liên quan đến vụ việc này là Incoterms 1990. Cả hai bên tham gia tranh chấp đều vận dụng Công ước CISG trong các tuyên bố và lập luận của mình. Bên bán có trụ sở tại Hàn Quốc, nhưng Hàn Quốc không phải là quốc gia thành viên Công ước CISG. Ngoài ra, do Trung Quốc bảo lưu hai nội dung khi tham gia Công ước CISG, nên Công ước không được áp dụng trong trường hợp này. Tuy nhiên, việc cả bên bán và bên mua đều đề cập đến Công ước này trong các tuyên bố và lập luận của mình cho thấy, cả hai bên đều hiểu và chấp nhận Công ước CISG. Do đó, tòa trọng tài tuyên bố áp dụng Công ước CISG như một thông lệ thương mại quốc tế trong vụ việc này.

Nội dung chính của tranh chấp

Theo lập luận đưa ra bởi các bên, nội dung tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là:

- Theo bên bán, việc giao hàng đã được xác định trong hợp đồng. Do hàng bị mất trong quá trình vận chuyển, bên mua phải thanh toán tiền hàng.

- Theo bên mua, bên mua từ chối thanh toán tiền hàng dựa trên các lý do và yêu cầu phản tố đòi bồi thường thiệt hại sau đây:

+ Báo cáo chìm tàu mới chỉ được thông báo từ phía bên bán; không có báo cáo hàng hải chính thức nào từ cơ quan liên quan. Bên mua yêu cầu tòa trọng tài điều tra tính chân thực của thông tin và xác định xem liệu bên bán đã thực sự xếp hàng lên tàu hay chưa.

+ Bên bán phải chịu trách nhiệm cho việc L/C bị mất hiệu lực.

+ Yêu cầu thanh toán của bên bán dựa trên việc chuyển giao rủi ro thiệt hại là không phù hợp với thông lệ và thực tiễn thương mại quốc tế. Bên bán thất bại trong việc nhận thanh toán là do các chứng từ bên bán cung cấp thông qua ngân hàng đàm phán không phù hợp với hợp đồng và L/C. Đây là lý do chính khiến cho bên bán không được thanh toán tiền hàng.

+ Bên mua đã chỉ định công ty A mở L/C. Khi L/C được cấp, nghĩa vụ thanh toán của bên mua đã hoàn thành. Khi bên bán bị từ chối thanh toán theo L/C, bên bán đã mất quyền yêu cầu thanh toán trực tiếp từ bên mua.

+ Sau khi bị từ chối thanh toán theo L/C và chứng từ bị trả lại, bên bán không thực hiện bất kỳ hành động nào để chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và các chứng từ vẫn do bên bán nắm giữ. Theo luật áp dụng, vận đơn đại diện cho quyền sở hữu hàng hóa và việc chuyển giao vận đơn đồng nghĩa với chuyển quyền sở hữu hàng hóa. Bên mua đã không nhận được vận đơn, do đó, bên bán đã không hoàn thành nghĩa vụ của mình.

+ Yêu cầu bồi thường từ công ty bảo hiểm không có mối liên hệ pháp lý nào với việc thanh toán.

+ Việc bên bán vi phạm hợp đồng cấu thành vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, gây thiệt hại nghiêm trọng cho bên mua, do đó, yêu cầu phản tố của bên mua phải được chấp nhận.

Việc giao hàng bởi bên bán và chuyển giao rủi ro

Vấn đề chính cần xác định trong vụ việc này là liệu rủi ro thiệt hại đã được chuyển cho bên mua hay chưa. Hợp đồng này được thiết lập trên cơ sở CNF. Theo Điều A3 của Phần CNF, Incoterms 1990, bên bán không có nghĩa vụ tham gia vào hợp đồng bảo hiểm, và cũng theo Điều A5 và B5, rủi ro thiệt hại chuyển giao sang phía bên mua kể từ khi hàng được chuyển lên tàu. Theo Điều 67 Công ước CISG, “rủi ro chuyển giao sang phía bên mua khi hàng đã được bàn giao cho bên vận chuyển đầu tiên theo quy định của hợp đồng mua bán”. Do đó, trước hết cần xác định xem liệu hàng đã được bàn giao cho bên vận chuyển đầu tiên chưa, cũng có nghĩa là, xác định xem liệu bên bán đã giao hàng theo đúng nghĩa vụ hợp đồng hay chưa. Theo Incoterms 1990, việc bên bán giao hàng thể hiện thông qua việc xếp hàng lên tàu tại cảng xếp dỡ trong thời gian nhất định theo quy định của hợp đồng. Hợp đồng giữa các bên nêu rõ, cảng xếp dỡ hàng phải là một cảng lớn tại Hàn Quốc và thời gian xếp hàng lên tàu không muộn hơn ngày 15/12/1995. Bên bán đã cung cấp bản sao vận đơn, cho thấy hàng được xếp lên tàu tại cảng PUSAN, Hàn Quốc và vận đơn được cấp ngày 15/12/2005 được đóng dấu “ĐÃ XẾP TOÀN BỘ LÊN TÀU”. Bên mua không đưa ra bất kỳ ý kiến phản đối nào về tính chân thực, tính pháp lý và hiệu lực của vận đơn này, mà chỉ yêu cầu làm rõ liệu bên bán đã thực sự giao hàng chưa, vì lý do không có báo cáo hàng hải chính thức nào về vụ đắm tàu được đưa ra. Báo cáo đắm tàu là bằng chứng cho tai nạn này. Tòa trọng tài chỉ ra rằng tai nạn đắm tàu chỉ xảy ra sau khi bên bán đã xếp hàng lên tàu. Do đó, nếu tai nạn này được chứng minh, thì việc giao hàng của bên bán cũng được chứng tỏ. Ngược lại, nếu không chứng minh được tai nạn đắm tàu thì cũng không đồng nghĩa với việc bên bán không giao hàng lên tàu. Do đó, bên mua không thể dựa vào lập luận “không có báo cáo hàng hải chính thức về tai nạn đắm tàu” để làm căn cứ xác định bên bán đã giao hàng hay chưa.

Dựa trên những lập luận này, tòa trọng tài cho rằng bên bán đã hoàn thành việc giao hàng theo quy định của hợp đồng và rủi ro thiệt hại đã được chuyển giao cho phía bên mua kể từ thời điểm hàng được chuyển lên tàu ngày 15/12/1995.

Việc hàng hóa bị mất

Theo lời khai của bên bán, sau khi hàng được chuyển lên tàu ngày 15/12/1995, tàu chở hàng đã bị đắm và toàn bộ hàng hóa đã bị mất. Ngày 19 và 20/12/1995, bên bán đã thông báo cho bên mua và ngân hàng cấp L/C về tai nạn được thông báo từ phía bên vận chuyển, kèm theo các tài liệu sau đây:

- Thông báo của bên vận chuyển Samsun gửi tới tất cả khách hàng có nội dung “tin buồn về tàu MV samsun creator” ngày 19/12/1995.

- Thông báo của bên vận chuyển Samsun gửi tới tất cả khách hàng có nội dung “thông báo về đắm tàu MV Samsun Creator” ngày 20/12/1995.

- Bản dịch thông báo ngày 19/12/1995.

- “Thông cáo về sự kiện” của thuyền trưởng tàu MV Samsun Creator ngày 18/01/1996 được chứng thực bởi Văn phòng luật và công chứng Samduk, Pusan, Hàn Quốc.

Bên mua cho rằng tất cả thông tin đắm tàu đều chỉ nghe được từ phía bên bán. Bên mua chưa bao giờ nhận được thông cáo về sự kiện của thuyền trưởng đã được chứng thực, cũng như bất kỳ báo cáo hàng hải chính thức nào về tai nạn chìm tàu. Dựa trên các thông báo bên bán đã chuyển cho bên mua và công ty A, tòa trọng tài chỉ ra rằng tai nạn này không phải lỗi của bên bán. Việc bên bán không nhận được báo cáo được chứng thực của thuyền trưởng và báo cáo hàng hải chính thức chỉ là vấn đề về bằng chứng.

Tòa trọng tài cũng lập luận rằng sau khi rủi ro thiệt hại được chuyển cho bên mua theo hợp đồng CNF (hay còn gọi là CFR), bên mua phải chịu hoàn toàn trách nhiệm bảo vệ hàng hóa. Bên mua có thể tự quyết định bảo vệ hàng hóa thông qua một công ty bảo hiểm. Sau khi hàng hóa bị tiêu hủy hoặc mất, bên mua có toàn quyền quyết định yêu cầu bồi thường từ công ty bảo hiểm. Trong trường hợp này, bên mua chắc chắn sẽ cần các bằng chứng. Bên mua cũng có thể cần bằng chứng cho một số mục đích khác. Ngoài ra, sau khi bên bán giao hàng, hàng hóa sẽ do bên vận chuyển quản lý. Bên bán không phải chịu trách nhiệm đưa ra các bằng chứng liên quan đến việc mất hàng. Bên bán, với vai trò là bên chuyển hàng, khi được bên mua yêu cầu, phải nỗ lực hỗ trợ bên mua như theo quy định tại Điều 10 Phần CFR, Incoterms 1990, “nhằm cung cấp mọi thông tin theo yêu cầu của bên mua cho hợp đồng bảo hiểm”. Đây không phải là nghĩa vụ cung cấp bằng chứng. Bên mua đã không đòi hỏi cung cấp thông tin hỗ trợ gì từ phía bên bán, trong khi lại cáo buộc rằng không nhận được bằng chứng hay báo cáo hàng hải nào. Lập luận này của bên mua bị tòa trọng tài cho là thiếu lô-gíc và không đủ cơ sở pháp lý.

Liên quan đến lập luận của bên mua rằng “Công ty A sau khi điều tra về vụ tai nạn đắm tàu đã không tìm được hồ sơ nào từ các cơ quan liên quan”, tòa trọng tài nhận thấy, ngoài tuyên bố ngắn gọn này, bên mua không đưa ra bất kỳ tài liệu cụ thể, bằng chứng hay thông tin nào khác về tài nạn, thậm chí ngay cả tên của cơ quan liên quan, nhưng lại đưa ra yêu cầu tòa trọng tài điều tra tính chân thực của tai nạn. Yêu cầu của bên mua là không nghiêm túc, do đó, bị tòa trọng tài bác bỏ.

Nghĩa vụ thanh toán của bên mua

Liên quan đến nghĩa vụ thanh toán của bên mua, tòa trọng tài đã đưa ra những kết luận sau đây:

(i) Việc các khoản thanh toán theo L/C bị từ chối do sự không nhất quán về chứng từ không giải phóng bên mua khỏi nghĩa vụ thanh toán

Tòa trọng tài chỉ ra rằng, lập luận của bên mua rằng L/C là một hợp đồng giữa ngân hàng cấp L/C và người thụ hưởng, độc lập với bên mua, là có lý. Do đó, bên mua không thể can thiệp được vào việc ngân hàng cấp L/C từ chối cho thanh toán cho người thụ hưởng do chứng từ không phù hợp. Trong trường hợp này, L/C bị mất hiệu lực và không thực hiện được việc thanh toán. Điều này có nghĩa L/C, với vai trò là một hợp đồng độc lập, đã hết hiệu lực. Tuy nhiên, hợp đồng giữa bên bán và bên mua vẫn còn hiệu lực, quyền và nghĩa vụ tương ứng của các bên theo hợp đồng vẫn tồn tại. Như vậy, ngay cả khi L/C không sử đụng được để thanh toán, bên mua cũng không được miễn trừ khỏi nghĩa vụ thanh toán.

Trong bản đệ trình của mình, bên mua cho rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khi L/C được cấp, dựa trên một số án lệ nước ngoài. Tòa trọng tài lập luận rằng các án lệ nước ngoài là nguồn tham khảo tốt, nhưng không có hiệu lực pháp lý. Bên mua đã không đưa ra được các tài liệu gốc của các án lệ, do vậy, tòa trọng tài không thể kiểm tra tính tương đương giữa vụ việc này và các án lệ đó, cũng như không thể chắc chắn rằng bên mua đã hiểu chính xác nội dung của các án lệ đó hay chưa. Do vậy, luận điểm bên mua đưa ra về một số án lệ liên quan bị bác bỏ.

Theo tòa trọng tài, L/C được cấp bởi ngân hàng chỉ là một cam kết thanh toán của bên mua, được bảo đảm bởi ngân hàng cấp L/C. Trong vụ việc này, việc thanh toán theo L/C đã bị từ chối và đã hết hiệu lực trước khi bên bán được thanh toán. Do vậy, bên mua chưa được miễn trừ khỏi nghĩa vụ thanh toán.

(ii) Việc bên mua không nhận được chứng từ không phải là lý do để bên mua từ chối thanh toán

Liên quan đến lập luận của bên mua rằng, bên bán đã không hoàn thành nghĩa vụ cung cấp các chứng từ theo Điều 30 Công ước CISG, tòa trọng tài chỉ ra rằng, Điều 30 Công ước CISG cần phải được xem xét cùng với Điều 53 Công ước CISG. Điều 30 định nghĩa về nghĩa vụ của bên bán, còn Điều 53 đưa ra định nghĩa về nghĩa vụ của bên mua: “bên mua phải thanh toán tiền hàng và nhận hàng theo quy định của hợp đồng và Công ước này”.

Theo tòa trọng tài, cần phải xem xét Điều 30 và Điều 53 trên cơ sở quá trình thực hiện hợp đồng và nghĩa vụ của các bên theo quy định tại hai điều này. Cụ thể, trước hết bên bán phải bàn giao chứng từ và bên mua phải thanh toán tiền hàng. Trong vụ việc này, các bên đã nhất trí trong hợp đồng rằng việc thanh toán sẽ thực hiện thông qua L/C. Như vậy có vẻ bên bán sẽ phải cung cấp chứng từ trước và ngân hàng cấp L/C sẽ thanh toán tiền hàng sau đó. Tuy nhiên, đó là hợp đồng riêng giữa ngân hàng cấp L/C và người thụ hưởng. Về phía bên mua, khi giao dịch với ngân hàng cấp L/C, bên mua phải thanh toán cho ngân hàng cấp L/C trước và sau đó nhận chứng từ. Đây là hành động mua lại chứng từ. Trong vụ việc này, do việc thanh toán theo L/C không thực hiện được, nhưng trình tự thực hiện nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng vẫn không thay đổi, nghĩa là, bên mua sẽ phải thanh toán tiền hàng trước và nhận lại chứng từ sau đó. Như vậy, tòa trọng tài cho rằng việc bên mua từ chối thanh toán vì chưa nhận được chứng từ trước là không hợp lý.

(iii) Việc hàng hóa bị mất do tai nạn đắm tàu chỉ xảy ra sau khi rủi ro thiệt hại hoặc mất mát hàng hóa đã được chuyển giao cho bên mua

Từ tài liệu do các bên cung cấp, tòa trọng tài không thấy bất kỳ bằng chứng nào cho thấy việc mất hàng là do lỗi của bên bán. Do đó, dẫn chiếu theo Điều 66 Công ước CISG, theo đó “mất mát hoặc thiệt hại hàng hóa sau khi rủi ro đã được chuyển cho phía bên mua không giải trừ bên mua khỏi nghĩa vụ trả giá, trừ trường hợp mất mát hoặc thiệt hại đó là do hành động hoặc thiếu sót của bên bán”, tòa trọng tài kết luận bên mua phải thanh toán tiền hàng cho bên bán.

Về các yêu cầu bồi thường của bên bán và yêu cầu phản tố của bên mua

Sau khi xem xét các tài liệu, tòa trọng tài đã chỉ ra rằng, do bên bán vi phạm hợp đồng vì đã cung cấp các tài liệu không phù hợp, nên sẽ phải chịu các chi phí phát sinh liên quan đến vi phạm hợp đồng này.             

Tuy nhiên, liệu việc bên bán vi phạm hợp đồng có giải phóng bên mua khỏi nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng hay không, hoặc bên mua có quyền chấm dứt hợp đồng và tự giải phóng mình khỏi nghĩa vụ hợp đồng hay không cần phải được xác định dựa trên Điều 29 Phần 1 Luật Hợp đồng kinh tế có yếu tố nước ngoài của Trung Quốc và Điều 49(1) Công ước CISG. Theo đó, nếu vi phạm hợp đồng của bên bán làm suy giảm nghiêm trọng lợi ích dự kiến của bên mua tại thời điểm ký kết hợp đồng, hoặc nếu bên mua không thực hiện bất kỳ nghĩa vụ nào dẫn tới vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, bên bán hoàn toàn có quyền chấm dứt hợp đồng và được giải phóng khỏi nghĩa vụ hợp đồng. Trong trường hợp này, tòa trọng tài nhận thấy sự không phù hợp trong các chứng từ bên bán cung cấp theo L/C không làm suy giảm nghiêm trọng lợi ích của bên mua, cũng không cấu thành vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng nào, do đó bên mua không thể chấm dứt hợp đồng hoặc tự giải phóng mình khỏi nghĩa vụ hợp đồng. Ngược lại, việc bên mua từ chối thanh toán cho bên bán cấu thành vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Do đó, yêu cầu bồi thường của bên bán được chấp nhận, yêu cầu phản tố của bên bán bị bác bỏ. Bên bán sẽ phải thanh toán cho bên mua khoản tiền hàng là 594.889,02 USD.

Liên quan đến khoản tiền lãi suất bên bán đề nghị bên mua phải thanh toán, được chia làm hai phần, tòa trọng tài lập luận như sau: (1) Đối với khoản tiền lãi phạt của ngân hàng HANA, do khoản tiền phạt này xuất phát từ các tài liệu không phù hợp do bên bán cung cấp, do đó, bên bán phải tự chịu chi trả cho khoản phạt này; (2) khoản tiền lãi thiệt hại do thanh toán muộn sẽ được tính từ ngày 29/7/1996 (ngày bên bán thanh toán cho ngân hàng HANA) đến ngày 12/4/1997. Tính toán lãi suất của bên bán cho khoản thanh toán chậm không dựa trên cơ sở pháp lý và hợp đồng, do đó không được chấp nhận. Theo lãi suất hiện hành đối với đồng USD là dưới 6%, tòa trọng tài cho rằng sẽ hợp lý khi bên mua bồi thường tiền lãi chậm thanh toán cho bên bán với mức lãi suất là 8%/năm. Tổng mức bồi thường tiền lãi chậm trả là:  594.889,02 x 8% x 257/365 = 33.509,36 USD.

Bên bán cũng yêu cầu bên mua thanh toán cho chi phí thuê luật sư 18.000 USD. Tuy nhiên, bên bán không đưa ra được bằng chứng chứng minh mình đã chi khoản phí luật sư đó. Do vậy, yêu cầu này bị bác bỏ.

Chi phí trọng tài cho cả yêu cầu bồi thường và yêu cầu phản tố đều do bên mua chi trả.

3.2. Phán quyết của tòa trọng tài

Tòa trọng tài đã ra phán quyết:

- Bên mua phải thanh toán tiền hàng cho bên bán (594.889,02 USD) và khoản lãi suất chậm trả (33.509,36 USD).

- Yêu cầu thanh toán chi phí thuê luật sư của bên mua bị bác bỏ.

- Yêu cầu phản tố của bên mua bị bác bỏ.

- Chi phí trọng tài đối với yêu cầu bồi thường và yêu cầu phản tố sẽ do bên mua chi trả.

Bên mua phải thanh toán các khoản nêu trên trong vòng 45 ngày kể từ ngày ra phán quyết. Phán quyết này là chung thẩm.

*Lưu ý: Căn cứ tham khảo dựa trên các Điều 30, 49, 53, 66 và 67 CISG.

“Điều 30

Bên bán có nghĩa vụ giao hàng, bàn giao chứng từ liên quan đến hàng hóa và chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua theo yêu cầu của hợp đồng và Công ước này”.

Ðiều 49

1. Người mua có thể tuyên bố hủy hợp đồng:

a. Nếu việc người bán không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng hay từ Công ước này cấu thành một vi phạm chủ yếu đến hợp đồng, hoặc:

b. Trong trường hợp không giao hàng: Nếu người bán không giao hàng trong thời gian đã được người mua gia hạn thêm cho họ chiếu theo khoản 1 điều 47 hoặc nếu người bán tuyên bố sẽ không giao hàng trong thời gian được gia hạn này.

2. Tuy nhiên trong trường hợp nếu người bán đã giao hàng thì người mua sẽ mất quyền hủy hợp đồng nếu người mua đã không tuyên bố hủy hợp đồng.

a. Khi người mua giao hàng chậm trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã biết rằng việc giao hàng đã được thực hiện .

b. Ðối với mọi trường hợp vi phạm trừ trường hợp giao hàng chậm trễ, trong một thời hạn hợp lý:

Kể từ lúc người mua đã biết hay đáng lẽ phải biết về sự vi phạm đó.

Sau khi đã hết mọi thời hạn mà người mua đã gia hạn thêm cho người bán chiếu theo khoản 1 điều 47 hoặc sau khi người bán đã tuyên bố rằng, họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn đã được gia hạn thêm đó, hoặc:

Sau khi đã hết mọi thời hạn bổ sung mà người bán đã yêu cầu chiếu theo khoản 2 điều 48 hay sau khi người mua đã tuyên bố là họ không chấp nhận cho người bán thực hiện nghĩa vụ.”

Ðiều 53

Người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và nhận hàng theo quy định của hợp đồng và của Công ước này.”

Ðiều 66

Việc mất mát hay hư hỏng hàng hóa xảy ra sau khi rủi ro chuyển sang người mua không miễn trừ cho người này nghĩa vụ phải trả tiền, trừ phi việc mất mát hay hư hỏng ấy là do hành động của người bán gây nên.”

“Ðiều 67

1. Khi hợp đồng mua bán quy định việc vận chuyển hàng hóa và người bán không bị buộc phải giao hàng tại nơi xác định, rủi ro được chuyển sang người mua kể từ lúc hàng được giao cho người chuyên chở thứ nhất để chuyển giao cho người mua chiếu theo hợp đồng mua bán. Nếu người bán bị buộc phải giao hàng cho một người chuyên chở tại một nơi xác định, các rủi ro không được chuyển sang người mua nếu hàng hóa chưa được giao cho người chuyên chở tại nơi đó. Sự kiện người bán được phép giữ lại các chứng từ nhận hàng không ảnh hưởng gì đến sự chuyển giao rủi ro.

2. Tuy nhiên, rủi ro không được chuyển sang người mua nếu hàng hóa không được đặc định hóa rõ ràng cho mục đích của hợp đồng hoặc bằng cách ghi ký mã hiệu trên hàng hóa, bằng các chứng từ chuyên chở, bằng một thông báo gửi cho người mua hoặc bằng bất cứ phương pháp nào khác.”

 

Bài viết liên quan

Góp ý