Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (gạo tấm) giữa một công ty của Trung Quốc với một công ty của Thụy Sĩ xét xử tại Ủy ban Trọng tài thương mại và kinh tế quốc tế Trung Quốc

Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (gạo tấm) giữa một công ty của Trung Quốc với một công ty của Thụy Sĩ xét xử tại Ủy ban Trọng tài thương mại và kinh tế quốc tế Trung Quốc

1. Các bên tranh chấp

Nguyên đơn: Bên mua (Thụy Sĩ).

Bị đơn: Bên bán (Trung Quốc).

Cơ quan giải quyết tranh chấp: Ủy ban Trọng tài thương mại và kinh tế quốc tế Trung Quốc.

2. Diễn biến tranh chấp

Vào ngày 25/5/1998, một công ty Thụy Sĩ - người mua đã ký hợp đồng mua 2.200 tấn gạo tấm với một công ty Trung Quốc - người bán (Hợp đồng số 98002), Trong đó, các bên đã thỏa thuận giao hàng vào cuối tháng 6/1998, hàng được giao FOB tại Cảng Đại Liên (Trung Quốc) với giá 57 đô la Mỹ/tấn, thanh toán bằng thư tín dụng trong vòng mười lăm ngày trước ngày giao hàng. Phí hoa hồng được tính 1 đô la Mỹ/ tấn trả cho Sun XX. 

Vào ngày 29 tháng 5 năm 1998, người mua có thư tín dụng được cấp cho người bán với tư cách là người thụ hưởng. Theo thư tín dụng và hợp đồng, hàng hóa sẽ được bốc lên để giao hàng không muộn hơn ngày 30 tháng 6 năm 1998, với các tài liệu liên quan được nộp chậm nhất là ngày 15 tháng 7 năm 1998 và giá của hàng hóa được trả trước ngày 21 tháng 7 năm 1998. Người mua đã trả 550 đô la Mỹ phí hành chính cho ngân hàng phát hành.

Trong thời gian bốc dỡ hàng, người mua đã cử nhân viên của mình đến bến, nơi con tàu "Le Dicey" đang neo đậu, chờ chuyển hàng lên tàu. Trước khi hàng hóa được vận chuyển, người mua đã phát hiện ra rằng hàng hóa có vấn đề về chất lượng. Người mua đã lập một biên bản có chữ ký của ông Zhou, người trung gian của Cục kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu Đại Liên, nói rằng 2.200 tấn hàng hóa do người bán cung cấp đã được tráo đổi (bởi chủ sở hữu của hàng hóa đối với hàng hóa bị mốc và xuống cấp trong khi đang chuyển hàng, và điều này đã được phát hiện bởi người mua. Sau khi điều tra sự thật tại cầu quay, Cục kiểm tra hàng hóa thương mại đã xác minh rằng đây là sự thật và do đó hàng hóa không thể được vận chuyển để xuất khẩu

Vào ngày 7 tháng 7 năm 1998, đại diện của người bán, Sun XX, đã ký một "thông báo ngừng chuyển hàng" cho Trung tâm xuất khẩu Đại Liên. Người bán đã không giao hàng theo hợp đồng cho người mua sau đó.

Do việc người bán không giao hàng kịp thời, để giảm thiểu thiệt hại, người mua đã ký thỏa thuận mua 2.200 tấn gạo tấm (hàng thay thế) từ công ty ngoại thương nông nghiệp Hắc Long Giang (sau đây là công ty nông nghiệp). Đơn giá của hàng hóa thay thế là 69 đô la Mỹ/ tấn, ngoài ra Người mua còn phải trả khoản hoa hồng 1 đô la Mỹ/ tấn cho Shi XX, đại diện của công ty nông nghiệp. Hợp đồng này đã được hoàn thành và vào ngày 13 tháng 7 năm 1998, người mua đã trả giá của hàng hóa cho công ty nông nghiệp, cũng như hoa hồng đã thỏa thuận cho Shi XX bằng chuyển khoản.

Người mua đã trả phí lên tới 3.366,76 đô la Mỹ, cho đại diện trước trọng tài của mình cho vụ việc này và trả trước phí trọng tài 3.614 đô la Mỹ cho Ủy ban Trọng tài cho vụ việc này.

Sau khi thiệt hại phát sinh, người mua đã liên lạc với người bán nhiều lần yêu cầu người bán chịu chi phí cho các thiệt hại, nhưng người mua không bao giờ nhận được phản hồi chắc chắn từ người bán.

Do đó, bên mua khiếu kiện ra Ủy ban trọng tài theo điều khoản trọng tài được quy định trong hợp đồng. Ủy ban Trọng tài Kinh tế và Thương mại Quốc tế của Trung Quốc (sau đây gọi là "Ủy ban Trọng tài") chấp nhận vụ việc này theo điều khoản trọng tài được quy định trong hợp đồng của các bên và đơn yêu cầu áp dụng trọng tài do người mua đệ trình.

Người mua yêu cầu Trọng tài tuyên bố rằng người bán phải chịu các khoản bồi thường thiệt hại cho người mua, bao gồm:

- Khoản lỗ 26.400 đô la Mỹ do chênh lệch giá do vi phạm hợp đồng của người bán; 

- Phí hành chính 550 đô la Mỹ cho thư tín dụng; 

- Thiệt hại do sự đình trệ của tàu; 

- Lãi suất 8% tính trên các khoản phí trên tính từ ngày phát sinh đến ngày thanh toán đã hoàn tất; 

- Phí luật sư được trả bởi người mua cho vụ kiện; và phí trọng tài cho vụ án.

Sau đó, vào ngày 15 tháng 3 năm 1999, người mua đã gửi "đơn yêu cầu bổ sung", yêu cầu Toà Trọng tài tuyên người bán chịu trách nhiệm thanh toán thêm 2.200 đô la Mỹ cho hoa hồng trên hợp đồng thay thế được ký kết do vi phạm Hợp đồng và chịu phí luật sư 3.366,76 đô la Mỹ do người mua trả cho vụ kiện.

3. Phân tích và phán quyết của Trọng tài

3.1. Luật áp dụng

Hợp đồng mua bán 2,200 tấn gạo tấm được ký kết thông qua phương tiện fax bởi người mua và người bán vào ngày 25 tháng 5 năm 1998. Trong hợp đồng không có điều khoản về luật áp dụng để giải quyết tranh chấp. Vì đây là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nên địa điểm kinh doanh của người mua (Thụy Sĩ) và người bán (Trung Quốc) đều thuộc các nước ký kết Công ước CISG và các bên không tránh khỏi việc áp dụng Công ước, Trọng tài phán quyết rằng CISG là luật áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa các bên.

3.2. Phân tích về các vi phạm hợp đồng của Người bán

Người bán đã vi phạm cơ bản hợp đồng theo Điều 25, Điều 30, Điều 35 CISG. Cụ thể:

a. Người bán đã vi phạm hợp đồng khi cố ý giao hàng hóa không đảm bảo chất lượng, hàng hóa không phù hợpcho Người mua

Người mua đã có bằng chứng rõ ràng thông qua biên bản được lập với sự chứng kiến của đại diện của Cục kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu Đại Liên và sau đó đã được xác nhận bởi chính Cục này, rằng 2.200 tấn hàng hóa do người bán cung cấp bị mốc và xuống cấp trong khi đang chuyển hàng, và điều này đã được phát hiện bởi người mua. Bằng chứng này đã được đệ trình lên Trọng tài. 

Việc người bán cố tình chuyển số gạo tấm bị mốc và xuống cấp cho Người mua khi đó là hành vi vi phạm hợp đồng khi giao hàng hóa không đảm bảo chất lượng, không phù hợp với mục đích sử dụng của hàng hóa cùng loại vẫn thường đáp ứng như đã được quy định tại Điều 35 Công ước CISG. 

b. Việc người bán không cung cấp hàng hóa theo hợp đồng sau khi người mua phát hiện ra rằng hàng hóa đã được trao đổi tại bến bốc hàng thành hàng hóa không phù hợp, đã tước đi đáng kể lợi ích kinh tế dự kiến của người mua từ hợp đồng

Cụ thể:  

Vì Người bán không giao hàng, Người mua, theo các Điều 45, 74, 75 và 76 của CISG, có quyền sử dụng biện pháp khắc phục để mua hàng thay thế một cách hợp lý và sau đó yêu cầu bồi thường thiệt hại liên quan đến Người bán do hậu quả của việc vi phạm hợp đồng cơ bản của bên bán. Như vậy là có mối nhân quả giữa hành vi vi phạm của Người bán với các thiệt hại của Người mua.

Theo các sự kiện như đã nêu trên, do sự vi phạm hợp đồng của Người bán, Người mua phải chịu những thiệt hại kinh tế sau:

(i) Người mua phải chịu thiệt hại do chênh lệch giá khi mua hàng hóa thay thế, nghĩa là chênh lệch giữa đơn giá 69 đô la Mỹ như được quy định trong Hợp đồng mua bán giữa Người mua và công ty nông nghiệp Hắc Long Giang với giá 57 đô la Mỹ được ghi nhận trong hợp đồng giữa Người mua và Người bán: 69 đô la Mỹ mỗi tấn - 57 đô la Mỹ mỗi tấn) x 2200 tấn = 26400 đô la Mỹ.

(ii) Phí hành chính 550 đô la Mỹ để phát hành thư tín dụng, được trả bởi người mua để thực hiện hợp đồng, là tổn thất trực tiếp của người mua do vi phạm hợp đồng của người bán.

(iii) Phí luật sư và phí trọng tài do người mua trả cũng là một tổn thất kinh tế của người mua do vi phạm của người bán.

Đối với các tổn thất khác:

- Đối với phí hoa hồng: Vì cả hai hợp đồng đều yêu cầu hoa hồng 1 đô la Mỹ cho mỗi tấn, nên hoa hồng được trả bởi người mua cho Shi XX của công ty nông nghiệp nên được coi là một chi phí tự trả để thực hiện hợp đồng và không nên được coi là thiệt hại thêm do vi phạm hợp đồng của người bán.

- Đối với tổn thất do đình trệ tại bến tàu: Người mua yêu cầu bồi thường tổn thất này còn người bán khiếu nại là đã tìm cách bồi thường tổn thất do sự đình trệ tại bến tàu. Tuy nhiên, vì các bên không có bằng chứng hỗ trợ liên quan nào được gửi, Toà Trọng tài không thể xác định được thiệt hại này.    

Do đó, người bán đã vi phạm cơ bản hợp đồng và cũng không thuộc trường hợp ngoại lệ mà Điều 25 CISG quy định.

Phán quyết của Tòa trọng tài

Tòa Trọng tài đã phán quyết rằng: 

- Người bán phải chịu khoản chênh lệch giá 26.400 đô la Mỹ và lãi suất 7% áp dụng cho 26.400 đô la Mỹ đó từ ngày 14 tháng 7 năm 1998 đến ngày thanh toán thực tế theo Điều 78 của CISG.

- Người bán phải chịu mọi phí trọng tài của vụ kiện này.

- Các khiếu nại trọng tài khác của người mua đã không được chấp thuận.

- Người bán phải bồi thường 2.700 đô la Mỹ cho phí luật sư mà bên mua đã trả cho vụ kiện này.

- Người bán phải chịu phí hành chính 550 đô la Mỹ cho việc thư tín dụng và lãi suất 7% được áp dụng cho 550 đô la Mỹ từ ngày 17 tháng 7 năm 1998 đến ngày thanh toán thực tế theo Điều 78 của CISG.

Các khoản trên phải được người bán thanh toán cho người mua trong vòng ba mươi ngày kể từ ngày có quyết định này.

Đây là phán quyết chung thẩm.

*Lưu ý: Căn cứ tham khảo dựa trên các Điều 25, 30, 35, 45, 74, 75, 76 và 78 CISG.

“Ðiều 25

Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự.”

Ðiều 30

Người bán có nghĩa vụ giao hàng, giao chứng từ liên quan đến hàng hoá và chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá theo đúng quy định của hợp đồng và của Công ước này.”

“Ðiều 35

1. Người bán giao hàng đúng số lượng, phẩm chất và mô tả như quy định trong hợp đồng, và đúng bao bì hay đóng gói như hợp đồng yêu cầu.

2. Ngoại trừ những trường hợp đã được các bên thỏa thuận khác, hàng hóa bị coi là không phù hợp với hợp đồng nếu:

a. Hàng hóa không thích hợp cho các mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng loại vẫn thường đáp ứng.

b. Hàng không thích hợp cho bất kỳ mục đích cụ thể nào mà người bán đã trực tiếp hoặc gián tiếp biết được vào lúc ký hợp đồng, trừ trường hợp nếu căn cứ vào các hoàn cảnh cụ thể có thể thấy rằng không dựa vào ý kiến hay sự phán đoán của người bán hoặc nếu đối với họ làm như thế là không hợp lý.

c. Hàng không có các tính chất của hàng mẫu hoặc kiểu dáng mà người bán đã cung cấp cho người mua.

d. Hàng không được đóng phong bì theo cách thông thường cho những hàng cùng loại hoặc, nếu không có cách thông thường, thì bằng cách thích hợp để giữ gìn và bảo vệ hàng hoá đó

3. Người bán không chịu trách nhiệm về việc giao hàng không đúng hợp đồng như đã nêu trong các điểm từ a đến d của khoản trên nếu như người mua đã biết hoặc không thể không biết về việc hàng không phù hợp vào lúc ký kết hợp đồng.”

Ðiều 45

1. Nếu người bán đã không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng mua bán hay Công ước này, thì người mua có căn cứ để:

a. Thực hiện những quyền hạn của mình theo quy định tại các điều từ 46 đến 52.

b. Ðòi bồi thường thiệt hại như đã quy định tại các điều từ 74 đến 77.

2. Người mua không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại khi họ sử dụng quyền dùng một biện pháp bảo hộ pháp lý khác.

3. Không một thời hạn trì hoãn nào có thể được Tòa án hay Trọng tài ban cho người bán khi người mua sử dụng đến bất kỳ biện pháp bảo hộ pháp lý nào trong trường hợp người bán vi phạm hợp đồng.”

Ðiều 74

Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết.”

Ðiều 75

Khi hợp đồng bị hủy và nếu bằng một cách hợp lý và trong một thời hạn hợp lý sau khi hủy hợp đồng, người mua đã mua hàng thay thế hay người bán đã bán hàng lại hàng thì bên đòi bồi thường thiệt hại có thể đòi nhận phần chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá mua thế hay bán lại hàng cũng như mọi khoản tiền bồi thường thiệt hại khác có thể đòi được chiếu theo Điều 74.”

“Ðiều 76

1. Khi hợp đồng bị hủy và hàng có một giá hiện hành, bên đòi bồi thường thiệt hại có thể, nếu họ đã không mua hàng thay thế hay bán lại hàng chiếu theo Điều 75, đòi nhận phần chênh lệch giữa giá ấn định trong hợp đồng và giá hiện hành lúc hủy hợp đồng, cùng mọi khoản tiền bồi thường thiệt hại khác có thể đòi được chiếu theo Điều 74. Mặc dầu vậy, nếu bên đòi bồi thường thiệt hại đã tuyên bố hủy hợp đồng sau khi đã tiếp nhận hủy hàng hóa, thì giá hiện hành vào lúc tiếp nhận hàng hóa được áp dụng và không phải là giá hiện hành vào lúc hủy hợp đồng.

2. Theo mục đích của điều khoản trên đây, giá hiện hành là giá ở nơi mà việc giao hàng đáng lẽ phải được thực hiện nếu không có giá hiện hành tại nơi đó, là giá hiện hành tại một nơi nào mà người ta có thể tham chiếu một cách hợp lý, có tính đến sự chênh lệch trong chi phí chuyên chở hàng hóa.”

Ðiều 78

Nếu một bên chậm thanh toán tiền hàng hay mọi khoản tiền thiếu khác, bên kia có quyền đòi tiền lãi trên số tiền chậm trả đó mà không ảnh hưởng đến quyền đòi bồi thường thiệt hại mà họ có quyền đòi hỏi chiếu theo Điều 74.”

 

Bài viết liên quan

Góp ý