
Rủi ro là gì? Thực hiện phân loại mức độ rủi ro trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh được quy định như thế nào? Nguyên tắc phân loại mức độ rủi ro được thực hiện ra sao?
Luật sư cho tôi hỏi: Công ty của chúng tôi chuyên nhập khẩu các mặt hàng điện tử và linh kiện từ nước ngoài. Trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan cho một lô hàng máy tính xách tay mới, hệ thống hải quan tự động của Cục Hải quan đã phân luồng mức độ rủi ro cho lô hàng nàyở mức cao, yêu cầu chúng tôi phải nộp đầy đủ hồ sơ giấy để cơ quan hải quan kiểm tra. Việc này mất khá nhiều thời gian của chúng tôi nhưng hiện tại tôi không biết việc thực hiện phân loại như trên dựa trên căn cứ nào và nguyên tắc phân loại ra sao để đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp như chúng tôi. Vì vậy, tôi muốn hỏi Luật sư, thực hiện phân loại mức độ rủi ro trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh được quy định như thế nào? Nguyên tắc phân loại mức độ rủi ro được thực hiện ra sao theo quy định của pháp luật hiện hành? Kính mong Luật sư giải đáp thắc mắc giúp tôi.
MỤC LỤC
3. Nguyên tắc phân loại mức độ rủi ro được thực hiện ra sao?
Trả lời:
1. Rủi ro là gì?
Định nghĩa về rủi ro trong pháp luật về hải quan được đề cập tại khoản 19 Điều 4 Luật Hải quan 2014 như sau:
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
…
19. Rủi ro là nguy cơ không tuân thủ pháp luật về hải quan trong việc thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa; xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải.
…”
Theo quy định trên, rủi ro có bản chất là một loại khả năng, nguy cơ tiềm ẩn hoặc hiển hiện liên quan tới hành vi không tuân thủ pháp luật về hải quan trong việc thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa; xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải. Nói cách khác, rủi ro ở đây là nguy cơ không chấp hành các quy định của pháp luật của một chủ thể nhằm trốn tránh nghĩa vụ, mưu cầu các lợi ích không chính đáng hoặc các mục đích mang tính tiêu cực khác. Từ đó, việc xác định rủi ro giúp cơ quan hải quan có cơ sở để phân loại, đánh giá và áp dụng biện pháp kiểm tra, giám sát phù hợp với từng đối tượng, tránh tình trạng kiểm tra tràn lan gây cản trở hoạt động thương mại.
Vậy, định nghĩa rủi ro có ý nghĩa quan trọng trong việc định hình cơ chế quản lý hải quan hiện đại, hướng tới mô hình quản lý dựa trên đánh giá mức độ tuân thủ và rủi ro của từng doanh nghiệp. Tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng quản lý rủi ro trong thủ tục, kiểm tra và giám sát hải quan, giúp cân bằng giữa hai mục tiêu: bảo đảm quản lý nhà nước và tạo thuận lợi thương mại. Nhờ đó, cơ quan hải quan có thể tập trung nguồn lực vào các trường hợp có nguy cơ vi phạm cao, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp chấp hành tốt được thông quan nhanh chóng, góp phần nâng cao hiệu quả, minh bạch và công bằng trong hoạt động hải quan.
2. Thực hiện phân loại mức độ rủi ro trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh được quy định như thế nào?
Thực hiện phân loại mức độ rủi ro trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh được quy định tại Điều 15 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP ngày 21/01/2015 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan như sau:
“Điều 15. Thực hiện phân loại mức độ rủi ro
1. Việc phân loại mức độ rủi ro trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh được thực hiện dựa trên mức độ tuân thủ pháp luật của người khai hải quan.
2. Trong quá trình phân loại mức độ rủi ro, cơ quan hải quan xem xét các yếu tố liên quan, gồm:
a) Chính sách quản lý, chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, hành lý của hành khách xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh;
b) Tính chất, đặc điểm của hàng hóa, hành lý, phương tiện vận tải;
c) Tần suất, tính chất, mức độ vi phạm liên quan đến hàng hóa, hành lý, phương tiện vận tải;
d) Xuất xứ của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh;
đ) Tuyến đường, phương thức vận chuyển hàng hóa, hành lý;
e) Các yếu tố khác liên quan đến quá trình hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
3. Cơ quan hải quan thực hiện đánh giá phân loại rủi ro đối với người khai hải quan, các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh theo các mức độ khác nhau để áp dụng các biện pháp kiểm tra, giám sát hải quan, thanh tra phù hợp.”
Từ quy định trên, có thể hiểu rằng việc phân loại mức độ rủi ro trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh được thực hiện chủ yếu dựa trên mức độ tuân thủ pháp luật của người khai hải quan. Tức thực tế chấp hành các quy định của pháp luật về hải quan và sự tôn trọng, ý thức pháp lý, văn hoá pháp luật của người khai hải quan được thể hiện trong các hoạt động liên quan tới hải quan.
Ngoài ra, trong quá trình phân loại mức độ rủi ro, cơ quan hải quan có quyền xem xét các yếu tố liên quan bao gồm chính sách quản lý, tính chất hàng hóa, tần suất vi phạm, xuất xứ, tuyến đường vận chuyển,... nhằm cho phép cơ quan hải quan phân tích toàn diện và khách quan về khả năng xảy ra vi phạm trong từng hoạt động.
Cuối cùng, điều luật chỉ ra ý nghĩa cốt lõi của việc thực hiện đánh giá phân loại rủi ro đối với người khai hải quan, các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh theo các mức độ khác nhau là để áp dụng các biện pháp kiểm tra, giám sát hải quan, thanh tra phù hợp. Từ đó, tránh các hành vi kiểm tra tràn lan, đảm bảo hiệu quả quản lý và tiết kiệm nguồn lực.
Như vậy, điều luật này có ý nghĩa đặc biệt trong việc thể chế hóa nguyên tắc quản lý rủi ro được nêu trong pháp luật Hải quan, hướng đến mô hình quản lý thông minh, minh bạch và dựa trên dữ liệu. Nhờ việc phân loại rủi ro, cơ quan hải quan có thể tập trung kiểm tra các đối tượng có nguy cơ vi phạm cao, đồng thời tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tuân thủ tốt, qua đó thúc đẩy thương mại hợp pháp, giảm thời gian và chi phí thông quan. Ngoài ra, quy định này còn góp phần tăng tính dự báo, phòng ngừa và ngăn chặn vi phạm pháp luật hải quan từ sớm, củng cố niềm tin và quan hệ hợp tác giữa cơ quan hải quan và cộng đồng doanh nghiệp.
3. Nguyên tắc phân loại mức độ rủi ro được thực hiện ra sao?
Các nguyên tắc của phân loại mức độ rủi ro được đề cập tại Điều 13 Thông tư số 81/2019/TT-BTC ngày 15/11/2019 của Bộ Tài chính về việc quy định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan như sau:
“Điều 13. Nguyên tắc phân loại mức độ rủi ro
1. Mức độ rủi ro trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh được phân loại trên cơ sở mức độ tuân thủ pháp luật của người khai hải quan và các yếu tố liên quan quy định tại Điều 15 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP.
2. Trong trường hợp các yếu tố liên quan quy định tại Điều 15 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP giống nhau, người khai hải quan có mức độ tuân thủ pháp luật cao hơn sẽ được phân loại mức độ rủi ro thấp hơn và ngược lại.
3. Cơ quan hải quan quản lý, ứng dụng hệ thống thông tin quản lý rủi ro để tự động tích hợp, xử lý dữ liệu theo tiêu chí tại Điều 15 và 17 Thông tư này phân loại mức độ rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan.”
Theo quy định trên, có thể thấy rằng nguyên tắc phân loại mức độ rủi ro trong hoạt động hải quan thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa mức độ tuân thủ pháp luật của người khai hải quan và mức độ rủi ro mà cơ quan hải quan phải quản lý. Cụ thể, việc phân loại rủi ro phải dựa trên hai nền tảng: mức độ tuân thủ pháp luật và các yếu tố liên quan được cụ thể theo Điều 15 Nghị định 08/2015/NĐ-CP ngày 21/01/2015 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và biện phápthi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan ở mục 2 nêu trên.
Đồng thời, khẳng định nguyên tắc công bằng, minh bạch trong đánh giá: khi các doanh nghiệp có các yếu tố liên quan giống nhau thì chủ thể càng tuân thủ pháp luật tốt thì phân loại mức độ rủi ro càng thấp và ngược lại. Ngoài ra, quy định còn nhấn mạnh việc ứng dụng hệ thống quản lý rủi ro bằng công nghệ thông tin, cho phép tự động hóa quá trình thu thập, xử lý và phân loại dữ liệu, giảm thiểu yếu tố chủ quan và nâng cao hiệu quả quản lý.
Như vậy, các nguyên tắc của việc phân loại mức độ rủi ro có vai trò quan trọng trong việc chuẩn hóa cơ chế phân loại rủi ro và bảo đảm tính nhất quán, minh bạch trong hoạt động hải quan. Việc xác lập nguyên tắc “tuân thủ cao – rủi ro thấp” không chỉ giúp khuyến khích doanh nghiệp chủ động chấp hành pháp luật mà còn góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tập trung nguồn lực kiểm tra vào các đối tượng rủi ro cao, tạo thuận lợi thương mại cho nhóm doanh nghiệp đáng tin cậy. Ngoài ra, việc ứng dụng hệ thống thông tin tự động hóa thể hiện bước chuyển đổi số trong quản lý hải quan, bảo đảm tính chính xác, khách quan và khả năng giám sát theo thời gian thực, qua đó củng cố niềm tin giữa cơ quan hải quan và cộng đồng doanh nghiệp.
Trân trọng./.












