Thông báo rút kinh nghiệm số 154/TB-VKSTC ngày 02/7/2025 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc kiểm sát giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại

THÔNG BÁO RÚT KINH NGHIỆM SỐ 154/TB-VKSTC NGÀY 02/7/2025 CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO VỀ VIỆC KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI

Nội dung vấn đề cần rút kinh nghiệm:

Hợp đồng thế chấp, cầm cố hàng hóa lưu kho số 62/NHNT ngày 12/6/2008, hàng hóa thế chấp gồm tôm, cá hải sản đông lạnh có giá trị thế chấp là 400 tỷ đồng. Sau đó ngày 15/9/2011, hai bên ký Phụ kiện Hợp đồng số 01 nội dung điều chỉnh giá trị hàng hóa là 107 tỷ đồng.

Tại Điều 1 của HĐTC số 62 hai bên thoả thuận thế chấp tài sản để đảm bảo nghĩa vụ cho tất cả các khoản nợ vay được quy định tại các Hợp đồng tín dụng được ký kết giữa Ngân hàng và Công ty. Đồng thời tại Điều 5 của 22 HĐTD năm 2016 thỏa thuận về Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, hai bên đều thỏa thuận nội dung: “Các biện pháp bảo đảm khác theo yêu cầu của bên cho vay”. Do đó, có căn cứ xác định HĐTC số 62 bảo đảm nghĩa vụ cho 22 HĐTD năm 2016.

Căn cứ Điều 349 Bộ luật dân sự năm 2005 (nay là khoản 4 Điều 321 Bộ luật dân sự năm 2015) quy định quyền của bên thế chấp thì Công ty K có quyền bán hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhưng có nghĩa vụ tài sản, số tiền bán hàng hóa trở thành tài sản thế chấp cho số hàng hóa đã bán. Hai bên đều thừa nhận hàng hóa thế chấp, cầm cố này có sự thay đổi theo từng thời điểm tại kho của Công ty theo các Biên bản kiểm tra năm 2016, năm 2017. Như vậy, Công ty K vẫn phải có nghĩa vụ bảo đảm tương ứng với số tiền đã bán hàng hoá. Công ty K cho rằng đã bán toàn bộ hàng tồn kho vào năm 2009 để thanh toán dứt điểm các khoản nợ vay nên số hàng hóa hiện nay không còn là không đúng với thỏa thuận của hai bên về phạm vi bảo đảm và không đúng quy định của pháp luật dân sự. Việc Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án cấp cao xác định HĐTC số 62 không có hiệu lực đảm bảo nghĩa vụ thanh toán nợ cho 22 HĐTD ký kết năm 2016 là không đúng quy định của pháp luật.

Hợp đồng thế chấp QSDĐ của bên thứ ba số 105/2011/VCB.STr ngày 03/10/2011; giá trị tài sản thế chấp là 11 tỷ 571 triệu đồng; về hình thức được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm cùng ngày 25/10/2011; Ngày 27/3/2014, các bên ký kết tiếp Phụ kiện Hợp đồng thế chấp số 01, nội dung điều chỉnh giá trị tài sản từ 11 tỷ 571 triệu đồng thành 11 tỷ 140 triệu đồng.

Về phạm vi nghĩa vụ bảo đảm tại Điều 1 của HĐTC số 105 nội dung các bên thoả thuận như sau: “Bên thế chấp đồng ý thế chấp và Ngân hàng đồng ý nhận thế chấp tài sản quy định tại Điều 2 Hợp đồng này để bảo đảm cho các nghĩa vụ thanh toán của khách hàng bao gồm nhưng không giới hạn ở nợ gốc, nợ lãi, lãi quá hạn và phí phát sinh từ hoặc liên quan đến:

⬜ Hợp đồng tín dụng số ... ngày .../..../... ký giữa khách hàng và Ngân hàng

⬜ Tất cả các hợp đồng tín dụng ký giữa Khách hàng và Ngân hàng nhưng tối đa không quá ...

⬜ Tất cả các hợp đồng tín dụng ký kết giữa khách hàng và Ngân hàng trong thời hạn ... năm kể từ ngày ký kết Hợp đồng này

☑ Nghĩa vụ khác: tài sản thế chấp này đảm bảo cho tất cả các khoản nợ phát sinh khác”.

Như vậy, nội dung hợp đồng được tích vào ô “Nghĩa vụ khác” được xác định là hợp đồng thế chấp có phạm vi bảo đảm cho toàn bộ, tất cả các khoản nợ của Công ty K phát sinh sau khi ký kết, là bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai mà không bị giới hạn về số tiền vay, không có giới hạn về thời gian cụ thể để thực hiện nghĩa vụ; đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 319 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 1, khoản 6 Điều 3 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.

Về thoả thuận nghĩa vụ bảo đảm, tại Điều 5 của tất cả 22 HĐTD năm 2016 đều có ghi nhận rõ nội dung hai bên thoả thuận rõ về nghĩa vụ của bên vay theo hợp đồng này được bảo đảm bằng: “Tài sản thế chấp của bên thứ ba là bốn GCNQSH nhà ở và QSDĐ ở trị giá 11.140 triệu đồng; ...được thực hiện theo quy định tại Hợp đồng bảo đảm số 105”.

Do đó, có căn cứ xác định HĐTC số 105 các bên có thoả thuận nghĩa vụ bảo đảm đến các HĐTD được ký kết trong tương lai và chính tại các HĐTD ký kết năm 2016 cũng có thoả thuận rõ nội dung dẫn chiếu về nghĩa vụ bảo đảm thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số 105.

Về quá trình các bên thực hiện HĐTC số 105, bên thế chấp tài sản là ông Q, bà L biết và thể hiện ý chí việc bảo đảm bằng tài sản của mình như sau:

Ngày 27/3/2014, Ngân hàng với ông Q, bà L tiếp tục ký kết Phụ kiện Hợp đồng thế chấp số 01, ghi nhận nội dung: “mọi điều khoản khác trong hợp đồng thế chấp QSH nhà ở và QSD đất ở số 105/2011/VCB.STr ngày 03/10/2011 vẫn không thay đổi”.

Đến năm 2016, và tháng 01/2017, các bên tiến hành lập 02 Biên bản kiểm tra sử dụng vốn có chữ ký của chính ông Q - Tổng giám đốc Công ty K. Nội dung hai biên bản đều ghi nhận việc sử dụng vốn vay của Công ty có biện pháp bảo đảm tín dụng dẫn chiếu trực tiếp đến “Tài sản thế chấp của bên thứ ba.. theo các Hợp đồng số:... 105/2011/VCB.STr ngày 3/10/2011”.

Đến ngày 16/10/2018 (sau khi Toà án thụ lý vụ án ngày 24/7/2017), chính ông Q có Giấy đề nghị Ngân hàng cho phép cho bà Nguyễn Thị T thuê tài sản, nội dung “tài sản này đang thế chấp tại Ngân hàng theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 105/2001/VCB.STr ngày 03/10/2011”. Cùng ngày 16/10/2018, Ngân hàng có Thông báo số 25, nội dung đồng ý để ông Q cho thuê tài sản.

Trong vụ án này, xuyên suốt quá trình từ năm 2000 xác lập quan hệ thế chấp của các bên đến thời điểm tranh chấp tháng 7/2017, Công ty K, ông Q, bà L đều thừa nhận việc thế chấp tài sản. Quá trình quan hệ vay vốn giữa Ngân hàng Công ty K có nhiều lần tiến hành định giá tài sản, ký kết thêm các Phụ kiện hợp đồng thế chấp, kiểm tra việc sử dụng vốn vay, nội dung đều thừa nhận giá trị đảm bảo của tài sản đã thế chấp cho tất cả các HĐTD đã ký.

Bên cạnh đó, đối với Hợp đồng thế chấp số 105, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử quyết định tuyên bố hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ mà không nêu rõ căn cứ pháp luật nào để tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Đến Tòa án cấp giám đốc thẩm của Tòa án cấp cao nhận định cũng không nêu rõ Hợp đồng thế chấp số 105 bị vô hiệu theo quy định pháp luật nào, tuyên xử quyết định giữ nguyên Bản án sơ thẩm là không có căn cứ, không đúng quy định của pháp luật.

Quá trình kiểm sát vụ án nêu trên, Viện kiểm sát cấp phúc thẩm có quan điểm giải quyết vụ án có căn cứ, đúng pháp luật đã thực hiện tốt công tác kiểm sát. Đến cấp giám đốc thẩm của Viện kiểm sát cấp cao không phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng nêu trên và có quyết định kháng nghị giám đốc thẩm là có thiếu sót, không đúng quy định của pháp luật, không đúng với những tài liệu, chứng cứ của vụ án. Do đó, Viện trưởng VKSND tối cao đã có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã xét xử chấp nhận quyết định kháng nghị.

Vì vậy, trong quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên cần nắm chắc các quy định của pháp luật dân sự, tố tụng dân sự, các văn bản hướng dẫn để phát hiện vi phạm của Tòa án, từ đó thực hiện tốt quyền kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật, nâng cao vị trí, vai trò của Viện kiểm sát.

Bài viết liên quan

Góp ý