
Trường hợp nào cơ quan chức năng được phép khóa tay và xích chân khi bắt người?
Luật sư cho tôi hỏi: Tối qua, khi tôi đang trên đường đi làm về, bỗng thấy một nhóm công an truy đuổi và khống chế một người phụ nữ trông có vẻ chống cự rất dữ dội. Sau khi khống chế được, họ khóa tay, rồi còn dùng xích khóa cả chân người đó trước khi đưa lên xe chuyên dụng. Cảnh tượng ấy khiến tôi vừa ngạc nhiên vừa lo lắng.Tôi tự hỏi, liệu việc làm đó có đúng quy định không?Hay là họ đang làm quá mức cần thiết? Vậy trong trường hợp nào thì cơ quan chức năng được phép khóa tay và xích chân khi bắt người vậy ạ? Có phải lúc nào cũng được làm như vậy không, hay chỉ áp dụng cho một số trường hợp đặc biệt thôi? Mong luật sư giải đáp giúp tôi, xin cảm ơn.
MỤC LỤC
1. Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự dể làm gì?
2. Công cụ hỗ trợ là gì? Việc sử dụng công cụ hỗ trợ được quy định như thế nào?
2.2. Việc sử dụng công cụ hỗ trợ được quy định như thế nào?
3. Trường hợp nào cơ quan chức năng được phép khóa tay và xích chân khi bắt người?
Trả lời:
1. Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự dể làm gì?
Trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm và bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử diễn ra đúng pháp luật là yêu cầu bắt buộc. Chính vì vậy, Điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được ban hành như một “hàng rào pháp lý” quan trọng, ghi nhận rõ các biện pháp ngăn chặn mà cơ quan có thẩm quyền được phép áp dụng. Cụ thể, Điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định như sau:
“Điều 109. Các biện pháp ngăn chặn
1. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
2. Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.”
Có thể thấy, điều khoản trên đã ghi nhận rõ các biện pháp ngăn chặn mà chủ thể có thẩm quyền được phép áp dụng, giúp cho mọi trường hợp áp dụng các biện pháp ngăn chặn đều có căn cứ pháp lý rõ ràng, tránh tùy tiện. Cụ thể, để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ rằng người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm cho thi hành án, thì lúc này cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp gồm giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Trong đó, các trường hợp bắt người được điều khoản trên ghi nhận bao gồm: Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam và bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Điều luật này không chỉ giúp cơ quan tiến hành tố tụng chủ động trong xử lý tội phạm, mà còn bảo đảm sự cân bằng giữa hiệu quả đấu tranh tội phạm và bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Nhìn chung, điều khoản này không chỉ góp phần ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, mà còn là minh chứng rõ ràng cho nỗ lực của nhà làm luật Việt Nam ta trong việc xây dựng nền tư pháp công bằng, nhân đạo và thượng tôn pháp luật. Đây là cơ sở quan trọng để đảm bảo rằng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nói trên lên một con người luôn phải tuân thủ luật pháp, có lý do chính đáng và được kiểm soát chặt chẽ, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào sự nghiêm minh và công bằng của pháp luật.
2. Công cụ hỗ trợ là gì? Việc sử dụng công cụ hỗ trợ được quy định như thế nào?
2.1. Công cụ hỗ trợ là gì?
Trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự xã hội, lực lượng thi hành công vụ không chỉ dựa vào kỹ năng nghiệp vụ mà còn cần đến những công cụ chuyên dụng để bảo đảm an toàn và hiệu quả. Những công cụ ấy được Nhà nước gọi chung là “công cụ hỗ trợ”, một khái niệm tưởng chừng quen thuộc nhưng được quy định rất chặt chẽ trong Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024.
Tại khoản 11 Điều 2 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2024 giải thích như sau:
“Điều 2. Giải thích từ ngữ
...
11. Công cụ hỗ trợ là phương tiện, động vật nghiệp vụ được sử dụng để thi hành công vụ, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nhằm hạn chế, ngăn chặn người có hành vi vi phạm pháp luật chống trả, trốn chạy; bảo vệ người thi hành công vụ, người thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hoặc báo hiệu khẩn cấp, bao gồm:
a) Súng bắn điện, hơi ngạt, chất độc, chất gây mê, từ trường, laze, lưới; súng phóng dây mồi; súng bắn đạn nhựa, nổ, cao su, hơi cay, pháo hiệu, hiệu lệnh, đánh dấu và đạn sử dụng cho các loại súng này; phương tiện xịt hơi cay, hơi ngạt, chất độc, chất gây mê, chất gây ngứa; lựu đạn khói, lựu đạn cay, quả nổ; dùi cui điện, dùi cui cao su, dùi cui kim loại; khóa số tám, bàn chông, dây đinh gai; áo giáp; găng tay điện, găng tay bắt dao; lá chắn, mũ chống đạn; thiết bị áp chế bằng âm thanh; ghế thẩm vấn đối tượng đặc biệt thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành;
b) Động vật nghiệp vụ là động vật được huấn luyện để sử dụng cho yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành;
c) Công cụ khác có tính năng, tác dụng tương tự như công cụ hỗ trợ quy định tại điểm a khoản này, không thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành.
…”
Như vậy, công cụ hỗ trợ là phương tiện, động vật nghiệp vụ được sử dụng để thi hành công vụ, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nhằm hạn chế, ngăn chặn người có hành vi vi phạm pháp luật chống trả, trốn chạy; bảo vệ người thi hành công vụ, người thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hoặc báo hiệu khẩn cấp. Những công cụ hỗ trợ này đã được liệt kê chi tiết tại điểm a, b khoản 11 Điều 2 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2024. Thậm chí, những công cụ khác không thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành mà có tính năng, tác dụng tương tự như công cụ hỗ trợ tại điểm a khoản 11 Điều 2 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2024 thì vẫn được xem là công cụ hỗ trợ theo quy định pháp luật.
Từ nội dung trên có thể thấy, Nhà nước không chỉ trao cho lực lượng chức năng quyền sử dụng công cụ hỗ trợ mà còn đặt ra khuôn khổ pháp lý chặt chẽ để quản lý việc sử dụng đó. Việc liệt kê cụ thể các loại công cụ, đồng thời mở rộng phạm vi đối với những công cụ khác có tính năng tương tự, thể hiện tầm nhìn toàn diện và linh hoạt của các điều luật.
Sự ghi nhận này mang ý nghĩa to lớn ở chỗ giúp đảm bảo tính hợp pháp, minh bạch trong thi hành công vụ, ngăn ngừa lạm dụng vũ lực, đồng thời cân bằng giữa quyền hạn của người thi hành công vụ và quyền nhân thân của công dân luôn được Hiếp pháp bảo vệ. Qua đó, điều khoản này không chỉ hỗ trợ công tác bảo vệ an ninh, trật tự mà còn thể hiện rõ tinh thần nhân văn và tuân thủ pháp luật trong quản lý, sử dụng công cụ hỗ trợ.
2.2. Việc sử dụng công cụ hỗ trợ được quy định như thế nào?
Trong thực tiễn thi hành công vụ, việc sử dụng công cụ hỗ trợ là một vấn đề nhạy cảm, đòi hỏi sự cẩn trọng tuyệt đối nhằm vừa bảo đảm an toàn cho lực lượng chức năng, vừa không xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Chính vì vậy, Điều 58 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024 được ban hành như một “rào chắn pháp lý” cần thiết, quy định rõ những trường hợp, giới hạn và trách nhiệm pháp lý khi người thi hành công vụ sử dụng công cụ hỗ trợ. Điều này không chỉ nhằm kiểm soát quyền lực, mà còn thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật và bảo vệ nhân quyền trong hoạt động cưỡng chế Nhà nước. Cụ thể như sau:
“Điều 58. Sử dụng công cụ hỗ trợ
1. Người được giao công cụ hỗ trợ khi thực hiện nhiệm vụ phải tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật này và được sử dụng trong trường hợp sau đây:
a) Trường hợp quy định tại Điều 23 của Luật này;
b) Ngăn chặn, giải tán biểu tình bất hợp pháp, khủng bố, bạo loạn, gây rối trật tự công cộng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
c) Ngăn chặn người đang có hành vi đe dọa đến tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác;
d) Phòng ngừa, ngăn chặn, giải tán việc gây rối, chống phá, không phục tùng mệnh lệnh của người thi hành công vụ, làm mất an ninh, an toàn trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giữ, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
đ) Phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết theo quy định của pháp luật.
2. Người được giao sử dụng công cụ hỗ trợ không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại khi việc sử dụng công cụ hỗ trợ đã tuân thủ quy định tại Điều này và quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp sử dụng công cụ hỗ trợ vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, gây thiệt hại rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, lợi dụng hoặc lạm dụng việc sử dụng công cụ hỗ trợ để xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.”
Dẫn chiếu đến khoản 2 Điều 22, Điều 23 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024 quy định như sau:
“Điều 22. Nguyên tắc sử dụng vũ khí quân dụng
1. ...
2. Khi thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, việc sử dụng vũ khí quân dụng phải tuân theo nguyên tắc sau đây:
a) Phải căn cứ vào tình huống, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà đối tượng thực hiện để quyết định việc sử dụng vũ khí quân dụng;
b) Chỉ sử dụng vũ khí quân dụng khi không còn biện pháp nào khác để ngăn chặn hành vi của đối tượng và sau khi đã cảnh báo mà đối tượng không tuân theo;
c) Việc sử dụng vũ khí quân dụng không kịp thời sẽ đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ, người khác hoặc có thể gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác thì được sử dụng ngay;
d) Không sử dụng vũ khí quân dụng khi biết rõ đối tượng là phụ nữ, người khuyết tật, trẻ em, người cao tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp những người này sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc chống trả, đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác;
đ) Trong mọi trường hợp, người sử dụng vũ khí quân dụng phải hạn chế thiệt hại do việc sử dụng vũ khí quân dụng gây ra.
3…”
và
“Điều 23. Các trường hợp nổ súng quân dụng khi thực hiện nhiệm vụ độc lập để bảo đảm an ninh, trật tự
1. Người thi hành nhiệm vụ độc lập phải cảnh báo bằng hành động, mệnh lệnh lời nói hoặc bắn chỉ thiên trước khi nổ súng vào đối tượng trong trường hợp sau đây:
a) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực hoặc công cụ, phương tiện khác tấn công hoặc chống trả đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác;
b) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực hoặc công cụ, phương tiện khác gây rối trật tự công cộng đe dọa tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác;
c) Người đang bị truy nã, bị bắt, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử hoặc chấp hành hình phạt tù đang chống trả, đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác; đối tượng đang đánh tháo người bị dẫn giải, người bị giam, giữ, áp giải do phạm tội nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm;
d) Khi biết rõ đối tượng đang thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
đ) Được nổ súng vào phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông đường thủy nội địa, trừ phương tiện giao thông của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế để dừng phương tiện đó trong trường hợp đối tượng điều khiển phương tiện đó tấn công hoặc đe dọa trực tiếp đến tính mạng người thi hành công vụ hoặc người khác; khi biết rõ phương tiện do đối tượng phạm tội điều khiển cố tình chạy trốn, trừ trường hợp trên phương tiện có chở người hoặc có con tin; khi biết rõ trên phương tiện chở đối tượng phạm tội hoặc vũ khí, vật liệu nổ trái phép, tài liệu phản động, bí mật nhà nước, ma túy, bảo vật quốc gia cố tình chạy trốn, trừ trường hợp trên phương tiện có chở người hoặc có con tin.
2. Người thi hành nhiệm vụ độc lập được nổ súng vào đối tượng không cần cảnh báo trong trường hợp sau đây:
a) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội khủng bố, bạo loạn, giết người, bắt cóc con tin hoặc đang trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ khi vừa thực hiện xong hành vi phạm tội đó;
b) Đối tượng sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển, chiếm đoạt hoặc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ;
c) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc uy hiếp trực tiếp đến an toàn của đối tượng cảnh vệ, công trình quan trọng về an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng được bảo vệ theo quy định của pháp luật;
d) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người thi hành công vụ hoặc người khác;
đ) Đối tượng đang trực tiếp thực hiện hành vi cướp vũ khí quân dụng của người thi hành công vụ;
e) Được nổ súng vào động vật đang đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác;
g) Ngăn chặn, vô hiệu hóa phương tiện không người lái trực tiếp tấn công, đe dọa tấn công hoặc xâm phạm nơi cấm, khu vực cấm, khu vực bảo vệ, mục tiêu bảo vệ.”
Như vậy, người được giao công cụ hỗ trợ khi thực hiện nhiệm vụ phải tuân thủ các quy định về nguyên tắc sử dụng vũ khí quân dụng và được sử dụng trong các trường hợp gồm:
- Các trường hợp nổ súng quân dụng khi thực hiện nhiệm vụ độc lập để bảo đảm an ninh, trật tự tại Điều 23 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2024;
- Ngăn chặn, giải tán biểu tình bất hợp pháp, khủng bố, bạo loạn, gây rối trật tự công cộng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
- Ngăn chặn người đang có hành vi đe doạn đến tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác;
Nội dung này thể hiện rõ nguyên tắc kiểm soát quyền lực trong sử dụng công cụ hỗ trợ của lực lượng chức năng. Pháp luật không cho phép việc sử dụng công cụ hỗ trợ một cách tùy tiện, mà chỉ giới hạn trong những tình huống thật sự cần thiết và có mức độ nguy hiểm cao. Ngoài ra còn có các trường hợp:
- Phòng ngừa, ngăn chặn, giải tán việc gây rối, chống phá, không phục tùng mệnh lệnh của người thi hành công vụ, làm mất an ninh, an toàn trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giữ, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
- Phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết theo quy định của pháp luật.
Có thể thấy, điều khoản này khảng định rõ nguyên tắc pháp quyền trong việc sử dụng công cụ hỗ trợ, nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm quyền hoặc sử dụng vượt quá giới hạn cần thiết. Việc giới hạn các trường hợp sử dụng, từ phòng ngừa, ngăn chặn hành vi gây rối, chống phá đến tình huống phòng vệ chính đáng hay cấp thiết cho thấy Nhà nước luôn đặt con người và trật tự xã hội ở vị trí trung tâm.
Không chỉ bảo đảm an toàn cho người thi hành công vụ, điều luật này còn thể hiện tinh thần nhân đạo và trách nhiệm của Nhà nước trong việc kiểm soát việc sử dụng vũ lực, bảo đảm mọi hành động can thiệp đều có cơ sở pháp lý và được thực hiện đúng mục đích bảo vệ. Nhờ đó, công cụ hỗ trợ trở thành biện pháp bảo vệ trật tự, chứ không phải công cụ cưỡng chế tùy tiện, góp phần duy trì niềm tin của nhân dân vào sự nghiêm minh, minh bạch của luật pháp.
3. Trường hợp nào cơ quan chức năng được phép khóa tay và xích chân khi bắt người?
Trong quá trình bắt giữ, áp giải người vi phạm pháp luật, lực lượng chức năng thường phải đối mặt với nhiều tình huống tiềm ẩn rủi ro, như người bị bắt chống trả, bỏ trốn hoặc gây nguy hiểm cho người khác. Để đảm bảo an toàn cho cả người thi hành công vụ lẫn đối tượng bị bắt, pháp luật cho phép sử dụng một số biện pháp ngăn chặn nhất định như khóa tay hoặc xích chân. Tuy nhiên, việc này không thể tùy tiện mà phải được thực hiện theo những điều kiện, nguyên tắc và trường hợp cụ thể do Nhà nước quy định rõ ràng.
Tại điểm k khoản 1 Điều 4 và khoản 1 Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 ghi nhận như sau:
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
...
k) Áp giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử.
…”
Điều 127. Áp giải, dẫn giải
1. Áp giải có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội.
2…”
Theo đó, áp giải được hiểu là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, bị tạm giữ, bị can hay bị cáo đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử. Như vậy, việc áp giải chỉ có thể thực hiện với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hay người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự.
Đặc biệt, khoản 2 Điều 7 Quyết định số 1502/2008/QĐ-BCA ngày 10/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Công an ban hành Quy trình bắt, áp giải bị can, bị cáo, người có quyết định thi hành án phạt tù, dẫn giải người làm chứng của lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự nêu cụ thể như sau:
“Điều 7. Bắt, áp giải bị can, bị cáo, người có quyết định thi hành án phạt tù
1. Bắt bị can, bị cáo, người có quyết định thi hành án phạt tù
...
2. Áp giải người bị bắt
a) Khám người, xác định đồ vật, tài sản người bị bắt mang theo, xử lý theo quy định của pháp luật đối với các đồ vật, tài sản đó; khóa tay người bị bắt và thực hiện việc áp giải;
b) Trường hợp áp giải đối tượng nguy hiểm hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, người bị kết án tử hình nếu xét thấy cần thiết thì xích chân để đảm bảo an toàn (việc xích chân phải được nêu trong kế hoạch);
c) …”
Điều khoản trên về bắt, áp giải bị can, bị cáo, người có quyết định thi hành án phạt tù ghi nhận việc áp giải người bị bắt có liên quan đến hành vi khóa tay, xích chân như sau:
- Khi tiến hành áp giải người bị bắt, cán bộ thi hành có quyền khám người, xác định đồ vật, tài sản người bị bắt mang theo, xử lý theo quy định của pháp luật đối với các đồ vật, tài sản đó, thậm chí có quyền khóa tay người bị bắt để đảm bảo an toàn, phòng ngừa hành vi chống đối hoặc bỏ trốn;
- Trường hợp đối tượng nguy hiểm hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, người bị kết án tử hình, nếu xét thấy cần thiết, lực lượng chức năng mới được phép xích chân đối tượng để đảm bảo an toàn tuyệt đối trong quá trình áp giải. Cần lưu ý rằng việc xích chân này phải được nêu rõ trong kế hoạch, nhằm tránh hành vi tự ý thực hiện trái phép gây ảnh hưởng đến quyền nhân thân của con người luôn được pháp luật nói chung và Hiến pháp nói riêng bảo vệ.
Qua đó ta thấy rằng, chỉ những trường hợp pháp luật cho phép, chủ thể có thẩm quyền mới được áp dụng biện pháp khóa tay, xích chân khi bắt người. Từ đó thể hiện nguyên tắc nhân đạo và kiểm soát quyền lực trong hoạt động tố tụng hình sự. Việc cho phép khóa tay, xích chân không nhằm trừng phạt hay làm nhục người bị bắt, mà là biện pháp đảm bảo an toàn cho lực lượng thi hành công vụ, người xung quanh và chính bản thân người bị bắt.
Trân trọng./.