Chuyển lợi nhuận về nước được thực hiện như thế nào?

Chuyển lợi nhuận về nước được thực hiện như thế nào?

Chuyển lợi nhuận về nước được thực hiện như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Năm tài chính vừa qua, dự án đầu tư ở nước ngoài của công ty chúng tôi có phát sinh lợi nhuận và chúng tôi quyết định chuyển phần lợi nhuận này về đầu tư ở Việt Nam. Tuy nhiên, vì lý do giấy tờ, thủ tục nên chúng tôi chưa chuyển về ngay được nên tôi thắc mắc liệu pháp luật hiện hành có quy định về giới hạn thời gian, yêu cầu chuyển lợi nhuận về nước ra sao. Để từ đó, chúng tôi có thể thực hiện đúng với quy định của pháp luật, hạn chế các trách nhiệm pháp lý phát sinh. Vì vậy, tôi muốn hỏi, chuyển lợi nhuận về nước được thực hiện như thế nào theo quy định của pháp luật hiện hành? Xin cảm ơn Luật sư!

MỤC LỤC

1.Lợi nhuận là gì?

2. Chuyển lợi nhuận về nước được thực hiện như thế nào?

 

Trả lời:

1. Lợi nhuận là gì?  

Lợi nhuận được hiểu là phần tài chính mà nhà đầu tư nhận được sau cùng khi đã trừ các khoản chi phí đầu tư, các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản chi phí phát sinh khác.

Đối với hoạt động đầu tư kinh doanh, lợi nhuận và tìm kiếm lợi nhuận là mục đích cơ bản và trọng yếu nhất. Bởi lợi nhuận là cơ sở để doanh nghiệp duy trì, phát triển và tồn tại lâu dài trong nền kinh tế. Đồng thời, lợi nhuận tạo điều kiện cho dự án đầu tư có khả năng được mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, nâng cấp, mở rộng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, công nghệ và các hoạt động sản xuất, tái sản xuất khác. Ngoài ra, đây còn là “con số” quan trọng đánh giá sự phát triển, tính hiệu quả của nền kinh tế, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng trong nhiều ngành, nghề khác nhau,… Vì vậy, với các vai trò ở mức độ vi mô và vĩ mô nêu trên yêu cầu quá trình hình thành lợi nhuận và sử dụng lợi nhuận cần mang tính thiết thực, hiệu quả nhằm đóng góp chung vào sự phát triển bền vững của cả dự án đầu tư và nền kinh tế - xã hội quốc gia.

2. Chuyển lợi nhuận về nước được thực hiện như thế nào?  

Nhà nước cho phép đầu tư ra nước ngoài nhằm mục đích cơ bản tăng nguồn thu cho nền kinh tế quốc gia. Do đó, yêu cầu chuyển lợi nhuận về nước là nghĩa vụ tài chính phù hợp liên quan đến mục đích nêu trên. Theo pháp luật hiện hành, chuyển lợi nhuận về Việt Nam được thực hiện theo Điều 68 Luật Đầu tư 2020 như sau:

“Điều 68. Chuyển lợi nhuận về nước

1. Trừ trường hợp giữ lại lợi nhuận theo quy định tại Điều 67 của Luật này, trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ đầu tư ở nước ngoài về Việt Nam.

2. Trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này mà không chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập khác về Việt Nam thì nhà đầu tư phải thông báo trước bằng văn bản cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thời hạn chuyển lợi nhuận về nước được kéo dài không quá 12 tháng kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này.

3. Trường hợp quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này mà chưa chuyển lợi nhuận về nước và không thông báo hoặc trường hợp quá thời hạn được kéo dài quy định tại khoản 2 Điều này mà nhà đầu tư chưa chuyển lợi nhuận về nước thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.”

* Lưu ý: Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính được hợp nhất thành Bộ Tài chính (căn cứ Mục 2.3 Phần II Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và khoản 6 Điều 1 Nghị quyết số 176/2025/QH15 ngày 18/02/2025 của Quốc hội về Cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV).

Như vậy, trên nguyên tắc, trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ đầu tư ở nước ngoài về Việt Nam. Có thể thấy rằng, đây được xem là thời gian hợp lý để nhà đầu tư cân nhắc giữa quyết định dùng lợi nhuận vào tái đầu tư ở nước ngoài hay chuyển lợi nhuận đó về Việt Nam.

Tuy nhiên, thời hạn trên không mang tính áp đặt cứng nhắc trong mọi tình huống mà cho phép nhà đầu tư được kéo dài khi có nhu cầu hay có các sự kiện khách quan, chủ quan xảy ra dẫn tới trong thời hạn 06 tháng nhà đầu tư không thể chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập khác về Việt Nam. Trường hợp này, nhà đầu tư cần phải thông báo trước bằng văn bản cho Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Và sau đó, cần có kế hoạch chuyển lợi nhuận về nước trong vòng 12 tháng kể từ ngày hết thời hạn 06 tháng ban đầu (tức phải trong thời hạn 18 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư).

Trường hợp không thực hiện đúng quy định về chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập từ việc đầu tư ra nước ngoài về Việt Nam, cụ thể:

- Quá thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư mà nhà đầu tư chưa chuyển lợi nhuận về nước và không thông báo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

- Quá thời hạn 12 tháng được kéo dài mà nhà đầu tư chưa thực hiện chuyển lợi nhuận về nước.

Trong trường hợp này, nhà đầu tư có vi phạm trong các trường hợp quy định nêu trên sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Từ những phân tích trên, có thể thấy điều luật về chuyển lợi nhuận về nước thể hiện sự cân bằng giữa quyền lợi của nhà đầu tư và yêu cầu quản lý tài chính quốc gia. Đặt ra cơ chế vừa mang tính khung vừa có tính linh hoạt để nhà đầu tư có đủ thời gian, nguồn lực, điều kiện cần thiết để chuyển lợi nhuận về Việt Nam. Đồng thời, cũng cho thấy chế tài xử lý minh bạch, hữu hiệu khi có sự vi phạm nghĩa vụ chuyển lợi nhuận về nước. Từ đó, góp phần duy trì trật tự pháp lý trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài, bảo đảm nguồn thu hợp pháp cho nền kinh tế trong nước và tăng cường tính trách nhiệm, minh bạch đối với quá trình thực hiện nghĩa vụ tài chính của nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài.

Trân trọng./.

Góp ý