Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về tội “Tổ chức, môi giới cho người khác ở lại Việt Nam trái phép”

MỤC LỤC

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 142/2022/HS-PT ngày 12/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với Trần Danh T và Nguyễn Thị L do có kháng cáo của bị cáo Trần Danh T và Nguyễn Thị L

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 03A/2025/HS-PT ngày 02/01/2025 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với các bị cáo Nguyễn Tuyết L5 và Nguyễn Tài Minh N do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Tuyết L5 và Nguyễn Tài Minh N

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 579/2022/HS-PT ngày 26/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với bị cáo Đặng Thụy D do có kháng cáo của bị cáo Đặng Thụy D

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 872/2022/HS-PT ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với bị cáo Vũ Văn T do có kháng cáo của bị cáo Vũ Văn T

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 32/2023/HS-PT ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với các bị cáo Nguyễn Thanh Th và Nguyễn Cảnh H do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thanh Th và Nguyễn Cảnh H

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 611/2022/HS-PT ngày 29/8/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với bị cáo Bai S do có kháng cáo của bị cáo Bai S

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 86/2023/HS-PT ngày 20/02/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với bị cáo BTPT do có kháng cáo của bị cáo BTPT

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 409/2023/HS-PT ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với bị cáo Lê Trường G do có kháng cáo của bị cáo Lê Trường G

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 639/2023/HS-PT ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với các bị cáo Hoàng Văn T và Nguyễn Hữu L do có kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của các bị cáo

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 97/2021/HS-PT ngày 18/02/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Môi giới cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với bị cáo Nguyễn Hữu T do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu T

 

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 142/2022/HS-PT ngày 12/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với Trần Danh T và Nguyễn Thị L do có kháng cáo của bị cáo Trần Danh T và Nguyễn Thị L

Nội dung hủy án:

(i) Xét kháng cáo của bị cáo T, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Tuy nhiên, mức hình phạt mà cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là chưa phù hợp tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, trong vụ án bị cáo chưa được hưởng lợi, thời gian thực hiện tội phạm ngắn. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

(ii) Xét kháng cáo của bị cáo L, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ mới. Tuy nhiên, mức hình phạt mà cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là chưa phù hợp với tính chất, mức độ hành vi cũng như vai trò của bị cáo trong vụ án. Mặt khác, bị cáo kháng cáo kêu oan nhưng hiện tại đã thay đổi kháng cáo, thành khẩn nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 03A/2025/HS-PT ngày 02/01/2025 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với các bị cáo Nguyễn Tuyết L5 và Nguyễn Tài Minh N do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Tuyết L5 và Nguyễn Tài Minh N

Nội dung hủy án 

Bị cáo Nguyễn Tuyết L5 biết công việc mà bị cáo L B K chỉ đạo làm là hành vi trái pháp luật, nhưng vì là vợ và sống phụ thuộc vào L10 nên phải làm theo sự chỉ đạo của bị cáo này. Bị cáo L5 chỉ làm các công việc tìm người thuê nhà để cho nhóm người Indonexia lưu trú, cung cấp các thông tin tài khoản của người thân và bạn bè cho bị cáo K1, thống kê các khoản tiền chi phí, tiền điện, nước tiền thuê nhà, tiền sửa chữa nhà và tiền thuê xe ô tô để bị cáo Leaw Boon K1 và đồng phạm thực hiện hành vi phạm tội, nên bị cáo là người giúp sức có vai trò không đáng kể. Lúc phạm tội thì bị cáo đang mang thai, nên bị cáo L5 còn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm i, n khoản Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Áp dụng khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo L5.

Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo L5 hỗ trợ cho luật sư Lê Trường H2 làm cầu nối để liên hệ với gia đình các bị cáo G1 Ban L6 và T15 nộp lại toàn bộ số tiền bất chính nên Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo L5, như đề nhị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 579/2022/HS-PT ngày 26/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với bị cáo Đặng Thụy D do có kháng cáo của bị cáo Đặng Thụy D

Nội dung hủy án 

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo Đặng Thuỵ D; vì bị cáo“phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” ;“thành khẩn khai báo ăn năn hối cải” là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; bị cáo là “mẹ đơn thân của người con đang học đại học và đang nuôi cha mẹ già” là các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 BLHS; nhưng toà sơ thẩm không áp dụng. HĐXX thấy rằng: bị cáo D bị truy tố và xét xử theo khoản 1 Điều 348 Bộ luật Hình sự có mức hình phạt từ từ 01 năm đến 05 năm. Bị cáo kháng cáo cho rằng bị cáo “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS, nhưng toà sơ thẩm không áp dụng là không đúng, vì khung hình phạt tại khoản 1 Điều 348 BLHS có mức tối đa là 5 năm tù nên không thuộc “trường hợp ít nghiêm trọng”. Đối với các tình tiết “mẹ đơn thân của người con đang học đại học và đang nuôi cha mẹ già”; HĐXX thống nhất bổ sung cho bị cáo được hưởng đây là các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 BLHS. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo xuất trình được tình tiết giảm nhẹ mới là đã nộp toàn bộ số tiền thu lợi bất chính là 32.700.000đ tại các biên lai thu tiền số 1914 và 1915 ngày 17/11/2022; do vậy cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 872/2022/HS-PT ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với bị cáo Vũ Văn T do có kháng cáo của bị cáo Vũ Văn T

Nội dung hủy án 

(i) Tuy nhiên, trong vụ án này, bị cáo phạm tội do nể nang bạn bè nên khi được Hoàng Việt T3 nhờ làm thủ tục cho người nước ngoài nhập cảnh trái phép, bị cáo đã sử dụng pháp nhân Công ty N2 xác nhận vào một số tài liệu để làm thủ tục bảo lãnh cho 02 người Hàn Quốc là L và K xin cấp giấy phép lao động và thẻ tạm trú ở lại Việt Nam trái phép nhưng trong quá trình phạm tội, bị cáo không được hưởng lợi, tham gia phạm tội với vai trò đồng phạm thứ yếu.

(ii) Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cung cấp thêm một số tình tiết mới gồm: Biên lai thu tiền số AA/2020/0065752 ngày 12/12/2022 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố H, thể hiện bị cáo đã nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm; Giấy Liệt sỹ của ông Nguyễn Phúc B1 (là cụ ngoại của vợ bị cáo) thể hiện gia đình bị cáo có công với cách mạng; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bố đẻ bị cáo thường xuyên phải điều trị bệnh tim tại Bệnh viện Tim H (có xác nhận của Bệnh viện Tim H); mẹ vợ bị cáo đang điều trị bệnh ung thư tuyến giáp (Có xác nhận của bệnh viện Nội tiết trung ương); bố vợ bị cáo bị bệnh thận thường xuyên phải điều trị tại Bệnh viện Đại học Y H (có xác nhận của Bệnh viện Đại học Y H); vợ bị cáo không có việc làm ổn định (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H1, huyện M, thành phố H); bản thân bị cáo có nhiều hoạt động tích cực thực hiện chống covid tại địa phương (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H1, huyện M) và chấp hành tốt các chính sách pháp luật của nhà nước và địa phương; thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân nơi cư trú đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thái độ khai báo, chấp hành pháp luật, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nơi cư trú rõ ràng của bị cáo nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy có đủ căn cứ áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự, chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt và cho hưởng án treo của bị cáo như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại H để cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội, dưới sự giám sát, giáo dục chính quyền địa phương, cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo.

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 32/2023/HS-PT ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với các bị cáo Nguyễn Thanh Th và Nguyễn Cảnh H do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thanh Th và Nguyễn Cảnh H

Nội dung hủy án 

(i) Xét kháng cáo của Bị cáo Nguyễn Thanh Th:

Bị cáo Nguyễn Thanh Th có vai trò chính trong vụ án Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép. Do vậy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Bị cáo 05 năm tù là phù hợp.

Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm Bị cáo có mang thai tuần thứ 11, có xác nhận của Trung tâm y tế huyện PhC và các tài liệu siêu âm, điều trị kèm theo, nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ cho Bị cáo theo điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (ngoài ra Bị cáo còn 04 người con khác). Bị cáo Th còn xuất trình các tài liệu khác như “Đơn xin hiến đất xây dựng trạm bơm LT”, “Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp xây dựng và phát triển Hội cựu giáo chức Việt Nam” là các tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó cần áp dụng thêm điểm n Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đồng thời do Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 là s, n nên áp dụng khoản 1 Điều 54 để giảm nhẹ dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cho Bị cáo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

(ii) Xét kháng cáo của Bị cáo Nguyễn Cảnh H:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự, tại cấp sơ thẩm Bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 (s, t) Điều 51 Bộ luật hình sự và có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo lại tham gia với vai trò đồng phạm, vai trò thấp hơn Nguyễn Thanh Th, Phạm Thị Thanh D. Bị cáo cũng không được hưởng lợi gì từ việc phạm tội.

Tại cấp phúc thẩm Bị cáo xuất trình “Bằng khen” của Ban chấp hành Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh HT cấp cho Nguyễn Cảnh H ngày 05/9/2022 vì đã có thành tích xuất sắc trong chiến dịch thanh niên tình nguyện hè năm 2022; “Đơn xin xác nhận” ngày 03/10/2022 của Nguyễn Cảnh H có nội dung: Hưng có nhiều thành tích xây dựng nông thôn mới và ủng hộ phong trào phòng chống Covid (có xác nhận của Ủy ban nhân dân thị trấn ĐTH); “Biên lai thu tiền” của Cục thi hành án dân sự tỉnh HT ngày 05/01/2023 về việc đã thu 20 triệu tiền phạt của Nguyễn Cảnh H; tiền đóng án phí hình sự sơ thẩm.

Như vậy Bị cáo Nguyễn Cảnh H phạm tội lần đầu, không có tiền án, tiền sự, phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức, có 3 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 (s,v,t) Bộ luật hình sự, lại không được hưởng lợi gì từ việc phạm tội, đã nộp tiền phạt bổ sung theo Bản án sơ thẩm, nên căn cứ vào Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo thì Nguyễn Cảnh H đảm bảo các điều kiện để hưởng án treo. Để đảm bảo khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp thuận ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 611/2022/HS-PT ngày 29/8/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với bị cáo Bai S do có kháng cáo của bị cáo Bai S

Nội dung sửa án 

Tuy nhiên xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Bai S đã thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, đây là 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo còn cung cấp thêm tình tiết đó là bị cáo có vợ và 01 con còn nhỏ, sinh ngày 27/09/2020, điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Đồng thời, do thay đổi tình hình, hiện nay dịch bệnh không còn nguy cấp và bị cáo Bai S là người nước ngoài vì thế hiểu biết về luật pháp Việt Nam hạn chế, nên đủ điều kiện để được Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự, chấp nhận kháng cáo, giảm một phần hình phạt. Xét thấy bị cáo Bai S đã bị tạm giam 14 tháng 20 ngày, thời gian tạm giam nói trên cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo cũng như để phòng ngừa chung trong xã hội, nên không cần thiết phải tạm giam thêm là thể hiện tính nhân đạo và mục đích của hình phạt được quy định tại đoạn 1, điểm d khoản 1 Điều 3 và Điều 31 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 86/2023/HS-PT ngày 20/02/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với bị cáo BTPT do có kháng cáo của bị cáo BTPT

Nội dung sửa án 

Tuy nhiên, xét nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo thấy: Bị cáo BTPT không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào; bị cáo có nhân thân tốt, đây là lần đầu phạm tội; có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng; bị cáo là người dân tộc thiểu số, có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã khai rõ hành vi phạm tội, đã thay đổi nội dung đơn kháng cáo từ kêu oan sang xin được hưởng án treo, thể hiện thái độ chấp hành pháp luật, sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân, đồng thời bị cáo xuất trình thêm tài liệu mới chứng minh có ông nội Bế Sỹ Trọng là Liệt sỹ, hiện đang được gia đình bị cáo thờ cúng; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, mức độ phạm tội và thực tế trong vụ án này bị cáo chưa thu lợi bất chính bằng vật chất, nên đã tuyên phạt bị cáo hình phạt tù là có căn cứ. Song ở vụ án này, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội có mức độ, do tình cảm chi phối, không đòi hỏi tiền công, chỉ với mục đích là duy trì mối quan hệ làm ăn; ngoài lần phạm tội này, bị cáo luôn chấp hành tốt chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, của người bào chữa và bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích, không ảnh hưởng đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, cũng là thể hiện chính sách nhân đạo, sự độ lượng khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta.

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 409/2023/HS-PT ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với bị cáo Lê Trường G do có kháng cáo của bị cáo Lê Trường G

Nội dung sửa án 

(i) Đối với trường hợp của khách hen Si H4 cũng với số tiền cho thuê phòng 3.000.000 ồng/tháng nhưng ược tính trừ chi phí hợp lý tiền iện nước số tiền là 7.363.000 ồng (còn thu lợi 28.137.000 đồng) nhưng ối với trường hợp của 02 khách là Zhao T2 và Su H cũng với số tiền cho thuê phòng 3.000.000 ồng/tháng nhưng không ược tính trừ chi phí hợp lý tiền iện nước là không phù hợp thực tế khách quan và chưa chính xác như ý kiến của ại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tại phiên tòa là c cơ sở. Vì vậy, HĐXX cấp phúc thẩm xác nh số tiền cáo Lê Trường G chi phí hợp lý tiền iện nước ối với trường hợp của 02 khách là Zhao T2 và S1 Hong Wei là: (7.363.000 ồng: 16 tháng) x 24 tháng (Zhao Tao 14 tháng, Su H 10 tháng) = 11.045.000 ồng. Như vậy, tổng số tiền mà cáo Lê Trường G thu lợi ất chính trong vụ án là 89.092.000 ồng và cáo Lê Trường G không phạm vào tình tiết nh khung tăng nặng theo iểm khoản 2 Điều 348 của ộ luật Hình sự: “Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”.

(ii) Tuy nhiên, như đã nhận định tại phần [2]; bị cáo Lê Trường G không phạm vào tình tiết định khung tăng nặng theo điểm đ khoản 2 Điều 348 của Bộ luật Hình sự như Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng để quyết định hình phạt. Đồng thời, bị cáo phạm tội lần đầu và thời điểm phạm tội của bị cáo là trong hoàn cảnh: là thời gian cao điểm mà toàn xã hội phải thực hiện chỉ thị 15/CT-TTg và 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ cũng đã làm ảnh hưởng đến nhận thức và tâm lý trong việc thực hiện các thủ tục tạm trú theo quy định. Bên cạnh đó, tại giai đoạn phúc thẩm; bị cáo tiếp tục nộp toàn bộ số tiền thu lợi bất chính và tiền phạt bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, HĐXX chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và giảm cho bị cáo Lê Trường G một phần hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tại phiên tòa.

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 639/2023/HS-PT ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với các bị cáo Hoàng Văn T và Nguyễn Hữu L do có kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của các bị cáo

Nội dung sửa án 

(i) Tại cấp phúc thẩm bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo nộp chứng cứ mới là huân chương kháng chiến của ông nội bị cáo, bị cáo khai vợ mới sinh con nhỏ chưa đầy tháng, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

(ii) Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị cho bị cáo Nguyễn Hữu L hưởng án treo vì mức hình phạt của bị cáo là 18 tháng tù, bị cáo có đủ các điều kiện để được hưởng án treo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xem xét, Hội đồng xét xử thấy bị cáo L phạm tội có mức độ, vai trò thấp, chưa được hưởng lợi, nhân thân bị cáo tốt, chưa phạm tội do đó có thể xem xét giảm hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo bằng thời gian tạm giam cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

(iii) Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị giao chiếc ô tô BKS: 29H-292.28 cho Cơ quan THADS thành phố Hà Nội đấu giá theo quy định pháp luật để thu hồi nợ cho Ngân hàng V1, phần còn lại nếu còn thì tịch thu sung công quỹ nhà nước ½ (là của bị cáo L1), còn ½ trả cho chị T3 (vợ bị cáo L1).

Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội là có căn cứ nên được chấp nhận. Cần sửa bản án sơ thẩm về vấn đề này.

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 97/2021/HS-PT ngày 18/02/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Môi giới cho người khác ở lại Việt Nam trái phép” đối với bị cáo Nguyễn Hữu T do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu T

Nội dung sửa án 

Xét hành vi phạm tội của bị cáo đã được khắc phục, những người nước ngoài đã bị trục xuất ngay sau đó. Đồng thời, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội do tình cảm chi phối, không đòi hỏi tiền công và không hứa hẹn trước; số tiền bị cáo chiếm hưởng phát sinh trong quá trình giao dịch thuê nhà. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cung cấp thêm đơn có xác nhận của chính quyền địa phương về hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính, đang nuôi bố mẹ già; Công văn của Công an phường H, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xác nhận về việc bị cáo có công trong việc phát hiện tội phạm; Biên lai thu tiền phạt bổ sung và án phí sơ thẩm 10.200.000 đồng thể hiện thái độ ăn năn hối cải. Do đó có sơ sở chấp nhận nội dung kháng cao xin hưởng án treo của bị cáo.

Bài viết liên quan

Góp ý