Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (quần áo) giữa người bán ở Ý với người mua ở Thụy Sỹ xét xử tại Tòa án
1. Các bên tranh chấp
Nguyên đơn là người bán, quốc gia Ý.
Bị đơn là người mua, quốc gia Thụy Sỹ.
Cơ quan giải quyết tranh chấp là Tòa án.
2. Diễn biến tranh chấp
Hai bên tranh chấp về chất lượng và sự thiếu phù hợp của quần áo đã được giao. Cụ thể như sau:
Vào các ngày 30 tháng 9 năm 2002, ngày 25 tháng 11 năm 2002 và ngày 20 tháng 01 năm 2003, người mua đã đặt mua quần áo từ người bán.
Từ ngày 27 tháng 01 đến ngày 5 tháng 4 năm 2003, người bán đã thực hiện việc giao quần áo theo đơn cho người mua, tổng giá trị 115.551,05 Francs Thụy Sỹ.
Ngày 02 tháng 4 năm 2003, người mua đã khiếu nại về chất lượng của một số mẫu quần áo. Sau đó, người mua đã trả lại 13 mặt hàng và lập hóa đơn với khoản tiền 32.641,00 Francs Thụy Sỹ. Người bán đã quyết định khấu trừ số tiền này theo giá của người mua. Phần còn lại 82.910,05 Francs Thụy Sỹ đã được yêu cầu bởi thủ tục tố tụng này.
Tuy nhiên, người mua khẳng định các quần áo bổ sung có trị giá 40.638,05 Francs Thụy Sỹ không phù hợp với các mẫu liên quan. Trong khi công nhận yêu cầu của người bán đối với 42.272,00 Francs Thụy Sỹ (82.910,05 trừ 40,638,05 Francs Thụy Sỹ), người mua kiện lại chi phí lưu trữ 43.200,00 Francs Thụy Sỹ. Sau khi phát sinh những chi phí này, người bán đã từ chối những quần áo không phù hợp bằng cách kiện lại người mua yêu cầu 928 Francs Thụy Sỹ (43.200 trừ 42.272 Francs Thụy Sỹ) và 4.000 Francs Thụy Sỹ về chi phí bán lại quần áo.
Do đó, các bên yêu cầu Tòa như sau:
a) Người bán yêu cầu:
- Người mua trả 82.910, 05 Francs Thụy Sỹ cộng thêm 5% tiền lãi kể từ ngày 31 tháng 5 năm 2003;
- Vô hiệu hóa kháng cáo số 20627018 đã được đệ trình cho Văn phòng thi hành các khoản nợ; và
- Người mua chịu mọi chi phí tố tụng.
* Liên quan đến hành động kiện lại, người bán yêu cầu:
- Hủy hành động kiện lại của người mua đến mức có thể chấp nhận được; và
- Người mua chịu mọi chi phí tố tụng.
b) Người mua yêu cầu:
- Đồng ý với đề nghị của người bán với số tiền 42.272,00 Francs Thụy Sỹ và tuyên bố giảm giá với cùng số tiền theo đề nghị của người bán. Phần yêu cầu bồi thường 40,638,05 nên được hủy bỏ;
- Hủy bỏ kháng cáo số 20627018 đã được đệ trình Văn phòng thực thi các khoản nợ trong phạm vi 42.272,00 Francs Thụy Sỹ với điều kiện là một phần của yêu cầu này được chấp nhận; và
- Người bán chịu mọi chi phí tố tụng.
* Liên quan đến hành động kiện lại, người mua yêu cầu:
- Người bán nhận lại hàng hóa có giá trị 40.638,05 Francs Thụy Sỹ đã được đưa vào xử lý;
- Người bán bồi thường cho người mua chi phí lưu trữ (bao gồm cả phí bảo hiểm) và bồi thường thiệt hại bổ sung với số lượng 4.928 Francs Thụy Sỹ cộng với 5% tiền lãi kể từ ngày 1 tháng 12 năm 2003; và - Người bán chịu mọi chi phí tố tụng.
3. Phân tích và phán quyết của tòa án
Người bán yêu cầu thanh toán 82.910,05 Francs Thụy Sỹ. Người mua yêu cầu thanh toán 4.928 Francs Thụy Sỹ thông qua hành động kiện lại. Do đó, giá trị của các tranh chấp hiện tại lên tới 87.838,05 Francs Thụy Sỹ.
Cả hai bên đều có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia ký kết CISG. Do đó, tranh chấp thuộc pháp vi áp dụng Điều 1 CISG. Hơn nữa, cả hai bên đều cho rằng CISG được áp dụng.
Tại phiên tòa, Thẩm phán chỉ cho người đại diện hợp pháp của người mua theo Điều 105 Bộ luật Dân sự, sẽ trái ngược với đề nghị yêu cầu bồi thường, phản đối việc thi hành án phải được gỡ bỏ và yêu cầu kiện lại phải được đưa ra. Đại diện hợp pháp của người mua cho rằng, theo yêu cầu tố tụng của mình, đề nghị một phần yêu cầu đã được cho phép và một phần khác bị bác bỏ. Nếu phần thứ hai thực sự được cho phép, người mua sẽ dựa vào khoản bù trừ với số tiền được cho phép có lợi cho người bán.
Tòa án quận giả định trên cơ sở thực tiễn và những tuyên bố của người mua liên quan đến yêu cầu tố tụng, sau đó tìm cách bác bỏ toàn bộ hành động kiện lại. Điều này là do người mua yêu cầu người bán trả 40.638,05 Francs Thụy Sỹ và tiếp tục lập luận rằng yêu cầu của người bán đối với 42.272 Francs Thụy Sỹ đã không còn tồn tại. Do đó, giá trị bù nợ không tương thích với việc thừa nhận khiếu nại và yêu cầu hủy bỏ việc thực thi.
Người bán đã yêu cầu quyền lợi đương nhiên trong thời gian kể từ năm
2006, tuy nhiên trong một thời điểm khác đã yêu cầu quyền lợi kể từ năm 2003. Với sự xem xét thích hợp của hồ sơ, Tòa án tuyên bố đây là một lỗi đánh máy. Lỗi này có thể được Tòa án sửa chữa và giải thích chính xác.
* Tranh chấp về hoãn giao hàng
Người mua cáo buộc người bán không thực hiện việc giao 3 đơn đặt hàng vào ngày 30 tháng 9, ngày 22 tháng 11 năm 2002 và ngày 20 tháng 01 năm 2003. Tuy nhiên, người mua tuyên bố rằng họ chấp nhận việc giao hàng bị trì hoãn đối với mối quan hệ thương mại lâu dài.
Lý do của Tòa: Người mua đã chấp nhận các đợt giao hàng bị trì hoãn nên tranh chấp này có thể được xem xét. Người mua đã không đặt thêm một khoảng thời gian để người bán thực hiện việc giao hàng và tuyên bố hủy hợp đồng với lý do về thời gian theo yêu cầu của CISG (điểm b khoản 1 Điều 49 và điểm a khoản 2 Điều 49 CISG). Do đó, người mua không căn cứ bất kỳ biện pháp khắc phục nào phát sinh từ việc giao hàng bị trì hoãn.
* Tranh chấp về sự không phù hợp
Về giới hạn thời gian kiểm tra và thông báo: Ngày 02 và ngày 15 tháng 4 năm 2003, người mua đã thông báo sự không phù hợp của hàng hóa. Vào ngày 4 và ngày 6 tháng 11 năm 2003 đã thông báo bổ sung bằng văn bản cho người bán về sự không phù hợp đối với quần áo. Người mua lập luận rằng họ đã đưa ra một thông báo kịp thời và đầy đủ về sự không phù hợp.
Các hóa đơn giao hàng các ngày 27 tháng 01, ngày 20 tháng 02, ngày 20 và 31 tháng 3 năm 2003. Người mua nói rằng họ đã nhận được quần áo vào ngày 27 tháng 01, ngày 10 và ngày 25 tháng 3 và ngày 5 tháng 4 năm 2003.
Ngày 19 tháng 8 năm 2003, người mua đã xác nhận với người bán rằng họ sẽ thanh toán các hóa đơn chưa xử lý trước ngày 15 tháng 9 năm 2003. Sau khi người mua đã thua trong một vụ kiện chống lại một trong những người mua quần áo của mình vào ngày 4 tháng 11 năm 2003, người mua đã yêu cầu người bán chịu một phần tổn thất phát sinh. Người mua đã tuyên bố rằng họ đã cố gắng bán lại những quần áo này cùng với người bán với sự phân chia chính xác các tổn thất giữa hai bên đã được ký nhưng thật bất ngờ, người bán không sẵn sàng tuân thủ thỏa thuận này. Đây là lý do tại sao người mua yêu cầu người bán chấp nhận quần áo trả lại. Tuy nhiên, người bán không thừa nhận về sự tồn tại của bất kỳ thỏa thuận nào.
Theo quy định pháp luật: Người mua phải kiểm tra hàng hóa hoặc đảm bảo có sự kiểm tra hàng hóa trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 38 CISG. Thông báo về sự thiếu phù hợp phải được đưa ra trong một thời gian hợp lý kể từ khi phát hiện hoặc tìm cách phát hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 39 CISG.
Lý do của Tòa: Người mua đang tham gia vào việc nhập khẩu hàng hóa. Việc này là do họ bán lại quần áo cho khách hàng của mình. Trong trường hợp bình thường, chỉ những khách hàng này sẽ xác định sự thiếu phù hợp. Do đó, một khoảng thời gian kéo dài để kiểm tra và thông báo được áp dụng. Thông thường, thời gian kiểm tra hai tuần và thời gian thông báo một tháng có thể được giả định. Điều này dẫn đến một thời gian tổng thể để thông báo khoảng sáu tuần. Theo luật học Đức, thời gian thông báo một tháng là hợp lý trong những trường hợp này. Tòa án quận cho rằng người mua đã tuân thủ nghĩa vụ kiểm tra và thông báo về sự thiếu phù hợp được đề cập trong các thư ngày 2 và ngày 15 tháng 4 năm 2003.
Bằng thư ngày 15 tháng 4 năm 2003, người mua đã giới hạn thông báo về việc không tuân thủ 13 mẫu sau khi đã xem xét các giải pháp hòa giải với phần lớn khách hàng của mình. Sau đó, người bán đã chấp nhận trả lại những bộ quần áo này mà không thừa nhận bất kỳ trách nhiệm pháp lý nào và họ đã giảm yêu cầu của mình đối với người mua là 32.641,00 Francs Thụy Sỹ. Như vậy, không còn là chủ thể của hành động này. Đối với quần áo còn lại đã được thông báo vào ngày 02 tháng 4 năm 2003, phải thừa nhận người mua không tìm cách khẳng định việc không tuân thủ. Điều này là do thông báo của họ bị giới hạn rõ ràng trong 13 mẫu được lấy lại bởi người bán.
Chỉ đến ngày 4 và ngày 6 tháng 11 năm 2003, người mua đã thông báo cho người bán về việc thiếu sự phù hợp đối với quần áo được đề cập trong danh sách ngày 10 tháng 11 năm 2003. Tuy nhiên, người mua cũng dựa vào thông báo trực tiếp tại Tòa. Tòa án quận cho rằng người mua chưa chứng minh đầy đủ sự tồn tại trực tiếp tại Tòa. Thay vào đó, người mua đã tuyên bố trong thư ngày 19 tháng 8 năm 2003 mà không có sự bảo lưu rằng họ sẽ trả các hóa đơn chưa được xử lý trước ngày 15 tháng 9 năm 2003. Do đó, người mua đã xác nhận sẵn sàng trả theo giá mua tương đương với việc từ bỏ mọi khiếu nại bảo hành phát sinh từ hợp đồng. Thông báo về sự không phù hợp vào ngày 4 và ngày 6 tháng 11 năm 2003 đã không thực hiện theo thời hạn yêu cầu.
Tòa án cho rằng người mua đã giới hạn thông báo về việc không tuân thủ 13 mẫu trong thư ngày 15 tháng 4 năm 2003. Do đó, người bán đã chấp nhận trả lại quần áo này. Người mua cũng tuyên bố vào ngày 19 tháng 8 năm 2003 rằng, họ sẽ thanh toán tất cả các hóa đơn chưa được xử lý. Do đó, họ khẳng định đã đạt được thỏa thuận với người bán liên quan đến việc bán lại là không thuyết phục. Thay vào đó, người mua đã tuyên bố trong thư ngày 16 tháng 11 năm 2003 rằng họ rất hối hận vì đã không đi đến một thỏa thuận. Đại diện pháp lý của người mua đã đề cập vào ngày 20 tháng 10 năm 2004 rằng người bán đã nhận được đề xuất vào ngày 4 tháng 11 năm 2003, theo đó, thực tế nên giảm giá 50%. Sau khi đề xuất này bị từ chối, ngày 10 tháng 11 năm 2003 đã xác nhận rằng hàng hóa bị trả lại trị giá 40,638,00 Francs Thụy Sỹ có thể được thu bởi người bán và được đưa ra xử lý. Do đó, thỏa thuận bị cáo buộc bởi người mua khó có thể xảy ra và không được hỗ trợ bởi bất kỳ bằng chứng nào. Do đó, hành động cho phép có lợi cho người bán.
* Tranh chấp về lãi suất
Người bán yêu cầu lãi suất là 5% kể từ ngày 31 tháng 5 năm 2003. Trong trường hợp không có bất kỳ thỏa thuận nào, giá mua sẽ tốt nhất tại thời điểm hàng hóa được bàn giao theo khoản 1 Điều 58 CISG. Nghĩa vụ trả lãi phát sinh kể từ thời điểm đáo hạn theo Điều 78 CISG. Trong trường hợp này, lãi suất không được xác định bởi CISG mà được điều chỉnh bởi luật pháp trong nước áp dụng cho hợp đồng là Luật của Ý. Trong phạm vi quyền hạn của Cộng đồng châu Âu (Ý là quốc gia thành viên), theo Chỉ thị 2000/35/EC của Hội đồng nghị viện châu Âu ngày 29 tháng 6 năm 2000 về việc kết hợp thanh toán chậm trong các giao dịch thương mại yêu cầu mức lãi suất cơ bản ít nhất ở mức 7% trên lãi suất cho vay chính. Do đó, mức lãi suất 5% theo yêu cầu của người bán là hợp lý trong mọi trường hợp. Do đó, người bán có quyền yêu cầu lãi suất là 5% kể từ thời điểm quần áo được bàn giao cho người mua. Kể từ khi quần áo được giao cho đến ngày 5 tháng 4 năm 2003, yêu cầu lãi suất của người bán đối với 5% là hợp lý.
* Hành động kiện lại
Thực tế: Người mua yêu cầu trả lại quần áo được cho là không phù hợp với trị giá 40.638,05 Francs Thụy Sỹ. Họ nói rằng việc bán quần áo tương ứng có tổng giá trị 42.272,00 Francs Thụy Sỹ. Người mua không thể chấp nhận giao hàng còn lại của quần áo có giá trị 40.000,00 Sfr. Người bán đã được thông báo về tình huống này vào ngày 4 tháng 11 năm 2003, tại thời điểm đó người mua đề xuất giảm giá 50%. Tuy nhiên, người bán đã từ chối đề xuất này. Do đó, người mua đã xác nhận vào ngày 10 tháng 11 năm 2003 rằng quần áo có giá trị 40.638,05 Francs Thụy Sỹ được đưa ra để xử lý việc thu tiền của người bán.
Người mua yêu cầu thêm người bán phải trả chi phí lưu trữ phát sinh, bao gồm phí bảo hiểm cũng như các thiệt hại bổ sung của 4.928,00 Francs Thụy Sỹ cộng với 5% tiền lãi kể từ ngày 1 tháng 12 năm 2003. Những chi phí này được cấu thành, đó là lý do tại sao không có hóa đơn nào được gửi. Tòa án sẽ phải tính toán các thiệt hại theo khoản 2 Điều 42 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Lý do của Tòa án: về việc này người bán đã thực hiện việc giao quần áo phù hợp với hợp đồng. Người mua không được quyền yêu cầu người bán mua lại quần áo trị giá 40.638,05 Francs Thụy Sỹ. Do đó, người mua có thể không yêu cầu bồi thường chi phí lưu trữ, có nghĩa vụ phải trả tổng giá mua là 83.910,05 Francs Thụy Sỹ. Không có yêu cầu kiện lại nào bị hoãn. Ngoài ra, người mua chưa xác định đầy đủ hoặc chứng minh sự tồn tại về yêu cầu kiện lại, cũng không có đủ bằng chứng để cho rằng người bán phải có nghĩa vụ chịu một phần tổn thất của người mua.
Chi phí tòa án: Giá trị của các tranh chấp lên tới 87.838,05 Francs Thụy Sỹ, theo Đạo luật điều chỉnh chi phí, án phí tối đa là 5.000,00 Francs Thụy Sỹ cho tố tụng dân sự. Trong trường hợp tố tụng phức tạp, khoản phí này có thể tăng gấp bốn lần so với 20.000 Francs Thụy Sỹ. Các tranh chấp hiện nay có giá trị tương đối cao. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng để lấy bằng chứng là không cần thiết. Với sự xem xét thích đáng về mức độ và mức độ phức tạp của vụ án, án phí của 3.600,00 Francs Thụy Sỹ là hợp lý.
Theo các quy định hiện hành về thủ tục tố tụng dân sự, bên thua kiện có nghĩa vụ bồi thường cho bên thắng cuộc đối với tất cả các chi phí mà bên kia phải chịu do hậu quả của thủ tục tố tụng (Điều 86 và Điều 81 đến 85 Bộ luật Dân sự).
Đại diện hợp pháp của người bán đã tính phí hóa đơn 17.040.60 Francs Thụy Sỹ và yêu cầu bồi thường thêm phụ phí 2.832,50 Francs Thụy Sỹ. Tuy nhiên, yêu cầu này không được thành lập. Tòa án quyết định rằng một khoản bồi thường 13.992,55 Francs Thụy Sỹ bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT) là hợp lý.
Phán quyết của Tòa
Yêu cầu của người bán được xác lập hoàn toàn. Người mua có nghĩa vụ thanh toán cho người bán 82.910,05 Francs Thụy Sỹ cộng với 5% tiền lãi kể từ ngày 31 tháng 5 năm 2003. Yêu cầu của người mua bị hủy bỏ.
Tòa án quận đưa ra phán quyết sau đây:
- Chấp nhận yêu cầu của người bán. Người mua phải trả người bán 82.910,05 Francs Thụy Sỹ cộng với 5% tiền lãi kể từ ngày 31 tháng 5 năm 2003.
- Sự phản đối đã được đệ trình lên Văn phòng thực thi các khoản nợ theo văn bản số 20627018 bị vô hiệu hóa.
- Hành động kiện lại của người mua bị hủy bỏ.
- Các khoản phí tòa án lên tới 3.800 Francs Thụy Sỹ người mua phải trả.
- Người mua được lệnh trả 13.992,55 Francs Thụy Sỹ bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT) cho người bán.
Kháng cáo chống lại bản án này có thể được đệ trình trước Tòa phúc thẩm trong vòng 14 ngày. Tuyên bố kháng cáo phải được gửi bằng văn bản và phải có bản sao của bản án này. Tuyên bố kháng cáo phải có một bản đệ trình hợp lý xác định các phần cụ thể của bản án hiện tại là đối tượng của kháng cáo. Người kháng cáo phải nộp một yêu cầu cụ thể. Nếu kháng cáo chỉ nhằm vào quyết định về chi phí thì phải đính kèm văn bản bản đệ trình lý do. Trong tố tụng dân sự, tuyên bố kháng cáo phải xác định trên cơ sở thực tế. Tuyên bố kháng cáo phải được nộp đủ số lượng bản sao cho Tòa án và bên bị kiện.
Phán quyết sẽ được gửi cho các bên thông qua các đại diện pháp lý của họ.
4. Bình luận chung
Theo Điều 38 CISG, quy định trách nhiệm của người mua phải kiểm tra hàng hóa, tuy không quy định cụ thể thời hạn kiểm tra và thời gian bắt đầu kiểm tra mà chỉ quy định việc kiểm tra thực hiện trong khoảng thời gian sớm nhất, tùy vào từng trường hợp cụ thể. Do đó, các Tòa án thường căn cứ vào các tình huống cụ thể dựa trên một số khía cạnh như loại hàng hóa, khối lượng hàng hóa, khối lượng công việc, cơ vật chất kỹ thuật và tài chính cho việc kiểm tra,... của từng trường hợp để ra phán quyết phù hợp.
Theo án lệ tranh chấp trong hợp đồng mua bán nắp phễu, Tòa án đã xác định người mua không tuân thủ nghĩa vụ kiểm tra hàng hóa dựa trên cơ sở thời gian giao hàng và tính chất của hàng hóa này, tòa án cho rằng việc kiểm tra các nắp phễu có thể thực hiện đơn giản và mất ít chi phí nhưng người mua đã không tiến hành thực hiện mặc dù hàng hóa đã được giao vài tuần.
Theo án lệ tranh chấp trong hợp đồng mua bán rượu, tòa án cũng xác định người mua không tuân thủ thời gian kiểm tra kịp thời và không có bẳng chứng chứng minh tại sao không tuân thủ, mặc dù có phát hiện khiếm khuyết của hàng hóa.
Theo án lệ tranh chấp trong hợp đồng mua bán quần áo, Tòa án cho rằng, thông thường thời gian kiểm tra hai tuần và thời gian thông báo một tháng. Tổng thời gian để thông báo khoảng 6 tuần. Do đó, người mua trong trường hợp này đã tuân thủ nghĩa vụ kiểm tra và thông báo của CISG.
Về thời gian bắt đầu kiểm tra hàng hóa: Theo Ban thư ký UNCITRAL, khoản 1 Điều 38, thời gian bắt đầu kiểm tra hàng hóa có thể là từ thời điểm giao hàng, thời gian giao hàng sẽ được xác định bởi hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong một số giao dịch, hàng hóa sẽ được giao cho người mua bằng phương tiện của bên thứ ba, địa điểm giao hàng sẽ là địa điểm nơi người bán giao cho người vận chuyển, trong trường hợp này sẽ không thuận lợi cho người mua kiểm tra hàng hóa tại thời điểm giao hàng. Vì vậy, khoản 2 Điều 38 CISG quy định, trong các giao dịch liên quan đến vận chuyển hàng hóa bởi bên thứ ba thì cho phép người bán trì hoãn việc kiểm tra cho đến khi hàng hóa đến đích và thời gian của người mua để kiểm tra hàng hóa là từ khi nhận được hàng hóa. Mục tiêu của khoản này là cung cấp cho người mua cơ hội kiểm tra cẩn thận hàng hóa.
Cũng theo Ban thư ký UNCITRAL khoản 3 Điều 38 CISG quy định trong trường hợp hàng hóa đang trên đường vận chuyển hoặc người mua bán lại hàng hóa mà việc vận chuyển thực hiện đến một nơi khác, người mua không cơ hội để kiểm tra thì việc kiểm tra được trì hoãn cho đến khi hàng hóa đến địa điểm mới với điều kiện người bán biết hoặc phải biết khi ký kết hợp đồng. Để căn cứ vào khoản này người mua phải chứng minh rằng người bán đã biết khả năng hàng hóa sẽ được thay đổi điểm đến trong vận chuyển và người mua không có cơ hội để kiểm tra hàng hóa.
Về chủ thể kiểm tra hàng hóa theo Khoản 1 Điều 38 CISG người mua trực tiếp kiểm tra hoặc thuê tổ chức, cá nhân khác kiểm tra để phát hiện ra các khuyến khuyết của hàng hóa, trong tranh chấp trong hợp đồng mua bán nắp phễu, tòa án giả định người mua có thể thuê một Viện nghiên cứu để thực hiện việc kiểm tra các nắp phễu.
Bên cạnh đó, theo bình luận của chuyên gia từ khi CISG đang được dự thảo, tác giả này cho rằng, việc kiểm tra hàng hóa không bắt buộc người mua phải phát hiện ra mọi khiếm khuyết có thể xảy ra, điều này chỉ phù hợp trong trường hợp được xác định tại hợp đồng và sẽ phụ thuộc vào loại hàng hóa và thoả thuận của mỗi bên ví dụ một bên sẽ không phát hiện ra sự thiếu phù hợp của hàng hóa nếu họ không có sẵn các cơ sở kỹ thuật và chuyên môn cần thiết. Do tính chất quốc tế của giao dịch, việc xác định phạm vi và loại hàng hóa kiểm tra cần được thực hiện theo các tập quán quốc tế.
*Lưu ý: Căn cứ tham khảo dựa trên các Điều 1, 38, 39, 49, 58 và 78 CISG.
“Ðiều 1
1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau.
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc,
b. Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước thành viên Công ước này.
2. Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không tính đến nếu sự kiện này không xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành hoặc vào thời điểm ký hợp đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao đổi thông tin giữa các bên.
3. Quốc tịch của các bên, tính chất dân sự hay thương mại của các bên hoặc của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước này.”
“Ðiều 38
1. Người mua phải kiểm tra hàng hóa hoặc bảo đảm đã có sự kiểm tra hàng hóa trong một thời hạn ngắn nhất mà thực tế có thể làm được tuỳ tình huống cụ thể.
2. Nếu hợp đồng có quy định về việc chuyên chở hàng hóa, thì việc kiểm tra hàng có thể được dời lại đến lúc hàng tới nơi đến.
3. Nếu địa điểm đến của hàng bị thay đổi trong thời gian hàng đang trên đường vận chuyển hoặc hàng được người mua gửi đi tiếp và khi đó người mua không có khả năng hợp lý để kiểm tra hàng hóa, còn người bán đã biết hay đáng lẽ phải biết khi ký kết hợp đồng về khả năng đổi lộ trình hay gửi tiếp đó, thì việc kiểm tra có thể được dời lại đến khi hàng tới nơi đến mới.”
“Ðiều 39
1. Người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng hóa không phù hợp hợp đồng nếu người mua không thông báo cho người bán những tin tức về việc không phù hợp đó trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã phát hiện ra sự không phù hợp đó.
2. Trong mọi trường hợp, người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng không phù hợp với hợp đồng nếu họ không thông báo cho người bán biết về việc đó chậm nhất trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hàng hóa đã thực sự được giao cho người mua trừ phi thời hạn này trái ngược với thời hạn bảo hành quy định trong hợp đồng.”
“Ðiều 49
1. Người mua có thể tuyên bố hủy hợp đồng:
a. Nếu việc người bán không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng hay từ Công ước này cấu thành một vi phạm chủ yếu đến hợp đồng, hoặc:
b. Trong trường hợp không giao hàng: Nếu người bán không giao hàng trong thời gian đã được người mua gia hạn thêm cho họ chiếu theo khoản 1 điều 47 hoặc nếu người bán tuyên bố sẽ không giao hàng trong thời gian được gia hạn này.
2. Tuy nhiên trong trường hợp nếu người bán đã giao hàng thì người mua sẽ mất quyền hủy hợp đồng nếu người mua đã không tuyên bố hủy hợp đồng.
a. Khi người mua giao hàng chậm trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã biết rằng việc giao hàng đã được thực hiện .
b. Ðối với mọi trường hợp vi phạm trừ trường hợp giao hàng chậm trễ, trong một thời hạn hợp lý:
Kể từ lúc người mua đã biết hay đáng lẽ phải biết về sự vi phạm đó.
Sau khi đã hết mọi thời hạn mà người mua đã gia hạn thêm cho người bán chiếu theo khoản 1 điều 47 hoặc sau khi người bán đã tuyên bố rằng, họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn đã được gia hạn thêm đó, hoặc:
Sau khi đã hết mọi thời hạn bổ sung mà người bán đã yêu cầu chiếu theo khoản 2 điều 48 hay sau khi người mua đã tuyên bố là họ không chấp nhận cho người bán thực hiện nghĩa vụ.”
“Ðiều 58
1. Nếu người mua không có nghĩa vụ phải trả tiền vào một thời hạn cụ thể nào nhất định, thì họ phải trả khi, chiếu theo hợp đồng và Công ước này, người bán đặt dưới quyền định đoạt của người mua, hoặc hàng hóa hoặc các chứng từ nhận hàng. Người bán có thể đặt điều kiện phải thanh toán như vậy để đổi lại việc họ giao hàng hoặc chứng từ.
2. Nếu hợp đồng quy định việc chuyên chở hàng hóa, người bán có thể gửi hàng đi với điều kiện là hàng hay chứng từ nhận hàng chỉ được giao cho người mua khi người mua thanh toán tiền hàng.
3. Người mua không có nghĩa vụ phải thanh toán tiền hàng trước khi họ có thể kiểm tra hàng hóa, trừ những trường hợp mà có thể thức giao hàng hay trả tiền do các bên thỏa thuận không cho phép làm việc đó.”
và
“Ðiều 78
Nếu một bên chậm thanh toán tiền hàng hay mọi khoản tiền thiếu khác, bên kia có quyền đòi tiền lãi trên số tiền chậm trả đó mà không ảnh hưởng đến quyền đòi bồi thường thiệt hại mà họ có quyền đòi hỏi chiếu theo Điều 74.”
