Nguồn vốn hoạt động và nguyên tắc quản lý, sử dụng vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?

Nguồn vốn hoạt động và nguyên tắc quản lý, sử dụng vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?

Nguồn vốn hoạt động và nguyên tắc quản lý, sử dụng vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là chủ một doanh nghiệp nhỏ chuyên sản xuất đồ gỗ xuất khẩu ở địa phương. Do nhu cầu mở rộng xưởng và đầu tư thêm máy móc, tôi muốn vay vốn ngân hàng nhưng thiếu tài sản bảo đảm. Tôi được giới thiệu là có thể nhờ Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh hỗ trợ. Tuy nhiên, tôi chưa hiểu rõ Quỹ bảo lãnh tín dụng này hoạt động dựa trên nguồn vốn nào và họ sử dụng, quản lý số tiền đó ra sao để bảo đảm công bằng, minh bạch? Mong luật sư tư vấn giúp tôi, xin cảm ơn.

MỤC LỤC

1. Nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?

2. Pháp luật quy định như thế nào về nguyên tắc quản lý và sử dụng vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng?

 

Trả lời:

1. Nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?

Trong bối cảnh doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay do hạn chế về tài sản bảo đảm, Quỹ bảo lãnh tín dụng ra đời như một công cụ hỗ trợ tài chính hữu hiệu. Để Quỹ bảo lãnh tín dụng này vận hành ổn định, minh bạch và có đủ nguồn lực thực hiện nhiệm vụ, pháp luật đã nêu cụ thể về nguồn vốn hoạt động, yếu tố cốt lõi quyết định khả năng bảo lãnh và tính bền vững của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Cụ thể tại Điều 40 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi tắt là “Nghị định số 34/2018/NĐ-CP”) như sau:

Điều 40. Nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng

Nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được hình thành từ các nguồn sau:

1. Vốn chủ sở hữu:

a) Vốn điều lệ của Quỹ bảo lãnh tín dụng do ngân sách địa phương cấp;

b) Vốn bổ sung từ kết quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định;

c) Vốn hình thành từ các khoản tài trợ, viện trợ, đóng góp không phải hoàn trả của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước dành cho Quỹ bảo lãnh tín dụng;

d) Vốn nhà nước khác theo quy định của pháp luật;

đ) Các nguồn vốn khác thuộc vốn chủ sở hữu theo quy định của pháp luật

2. Vốn huy động: vốn huy động từ các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật và quy định nội bộ của Quỹ bảo đảm phù hợp với khả năng hoàn trả của Quỹ.

3. Các khoản vốn khác gồm:

a) Vốn nhận ủy thác của chính quyền địa phương, các quỹ tài chính địa phương, các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước (bên ủy thác) để thực hiện yêu cầu của bên nhận ủy thác theo quy định của pháp luật và Nghị định này;

b) Các nguồn vốn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.”

Như vậy, nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được hình thành từ các nguồn gồm vốn chủ sở hữu, vốn huy động hay các khoản vốn khác. Cụ thể như sau:

- Thứ nhất là nguồn vốn chủ sở hữu có:

+ Vốn điều lệ của Quỹ bảo lãnh tín dụng do ngân sách địa phương cấp;

+ Vốn bổ sung từ kết quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định;

+ Vốn hình thành từ các khoản tài trợ, viện trợ, đóng góp không phải hoàn trả của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước dành cho Quỹ bảo lãnh tín dụng;

+ Vốn nhà nước khác theo luật định;

+ Các nguồn vốn khác thuộc vốn chủ sở hữu theo luật định.

Vốn chủ sở hữu này có thể được xem là “xương sống” của Quỹ bảo lãnh tín dụng, thể hiện năng lực tài chính, khả năng chịu rủi ro và mức độ độc lập trong hoạt động. Càng có nguồn vốn chủ sở hữu mạnh thì Quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ càng có uy tín, dễ dàng thu hút hợp tác từ ngân hàng và các tổ chức tài trợ trong cũng như ngoài nước.

Bên cạnh nguồn vốn chủ sở hữu, Nhà nước cho phép Quỹ bảo lãnh tín dụng huy động vốn từ các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước theo pháp luật và quy định nội bộ của Quỹ bảo lãnh tín dụng bảo đảm phù hợp với khả năng hoàn trả của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Sự ghi nhận này mở ra cơ chế linh hoạt giúp Quỹ bảo lãnh tín dụng tăng quy mô hoạt động, mở rộng phạm vi bảo lãnh và tăng khả năng chia sẻ rủi ro với các ngân hàng.

Tuy nhiên, việc huy động vốn cũng đồng nghĩa với việc Quỹ bảo lãnh tín dụng phải đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, tuân thủ giới hạn an toàn vốn và quản lý chặt chẽ dòng tiền. Nếu quản trị không cẩn trọng, việc huy động quá mức hoặc sử dụng vốn không hiệu quả có thể khiến Quỹ bảo lãnh tín dụng rơi vào tình trạng mất cân đối tài chính, ảnh hưởng đến uy tín và khả năng bảo lãnh. Do đó, nội dung “phù hợp với khả năng hoàn trả” vừa là nguyên tắc an toàn, vừa là hàng rào pháp lý ngăn ngừa rủi ro nợ xấu, bảo đảm cho hoạt động tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng được ổn định và bền vững.

Ngoài hai nhóm nguồn vốn nêu trên, Quỹ bảo lãnh tín dụng còn có nguồn vốn từ các khoản vốn khác, cụ thể:

- Vốn nhận ủy thác của chính quyền địa phương, các quỹ tài chính địa phương, các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước (bên ủy thác) để thực hiện yêu cầu của bên nhận ủy thác theo quy định của pháp luật;

- Các nguồn vốn hợp pháp khác theo luật định.

Các khoản vốn khác này thể hiện tính mở, linh hoạt của chính sách tài chính công. Đây là kênh quan trọng để thu hút thêm nguồn lực xã hội, giúp Quỹ bảo lãnh tín dụng mở rộng phạm vi hỗ trợ mà không làm gia tăng gánh nặng cho ngân sách địa phương.

Từ những phân tích trên, ta thấy rằng điều khoản này là một trong những trụ cột pháp lý quan trọng nhất, quyết định đến hiệu quả và sức sống lâu dài của mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng. Cấu trúc nguồn vốn được thiết kế hợp lý, vừa đảm bảo tính ổn định thông qua vốn chủ sở hữu, vừa mở rộng khả năng huy động, đồng thời tạo điều kiện thu hút nguồn lực xã hội thông qua vốn huy động và các khoản vốn hợp pháp khác.

Khi được quản lý minh bạch, sử dụng đúng mục đích và có chiến lược tài chính bền vững, Quỹ bảo lãnh tín dụng không chỉ là “người đồng hành” giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt qua rào cản tín dụng, mà còn là cánh tay nối dài của chính sách phát triển kinh tế địa phương, góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển bền vững và bao trùm của quốc gia.

2. Pháp luật quy định như thế nào về nguyên tắc quản lý và sử dụng vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng?

Ngoài việc xác định rõ nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng, Điều 41 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP đã đặt ra nguyên tắc quản lý và sử dụng vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng, một nội dung quan trọng trong cơ chế vận hành của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Đây là bước tiếp nối logic của pháp luật, nhằm bảo đảm rằng mọi dòng vốn trong Quỹ bảo lãnh tín dụng đều được sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và an toàn, góp phần thực hiện đúng sứ mệnh hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cụ thể:

Điều 41. Nguyên tắc quản lý và sử dụng vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng

1. Vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng phải được sử dụng theo nguyên tắc đúng mục đích, có hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn và tài sản, cụ thể:

a) Cấp bảo lãnh tín dụng cho các bên được bảo lãnh theo quy định tại Nghị định này;

b) Đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản cố định phục vụ trực tiếp cho hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng tối đa không quá 7% vốn điều lệ thực có của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Chủ tịch Quỹ ban hành quy chế đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản cố định đảm bảo chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng.

2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, bổ sung vốn điều lệ cho Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Nghị định này và quy định của Luật ngân sách nhà nước.

3. Vốn nhàn rỗi của Quỹ bảo lãnh tín dụng được sử dụng để đầu tư mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, công trái xây dựng tổ quốc, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh, được gửi tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng thuộc danh sách các tổ chức tín dụng được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt trong từng thời kỳ theo nguyên tắc bảo toàn, phát triển vốn.”

Điều luật trên khẳng định, vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng phải được sử dụng theo nguyên tắc đúng mục đích, có hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn và tài sản. Đây là nguyên tắc nền tảng chi phối toàn bộ hoạt động tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Cụ thể điều luật nêu rằng:

- Việc cấp bảo lãnh tín dụng cho các bên được bảo lãnh phải tuân theo quy định Nghị định số 34/2018/NĐ-CP;

- Đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản cố định phục vụ trực tiếp cho hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng tối đa không quá 7% vốn điều lệ thực có của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng ban hành quy chế đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản cố định đảm bảo chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng.

Nội dung này thể hiện rõ định hướng quản lý chặt chẽ và bền vững đối với nguồn vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Điều luật đặt ra nhằm bảo đảm mọi hoạt động tài chính đều minh bạch, có kiểm soát và phục vụ đúng mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, việc giới hạn đầu tư và yêu cầu tuân thủ pháp luật giúp ngăn ngừa lãng phí, rủi ro và thất thoát nguồn lực. Qua đó, Quỹ bảo lãnh tín dụng được củng cố về uy tín, năng lực tài chính và khả năng vận hành ổn định, góp phần phát triển hệ thống tín dụng lành mạnh, hỗ trợ hiệu quả cho nền kinh tế địa phương.

Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ là chủ thể có trách nhiệm báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, bổ sung vốn điều lệ cho Quỹ bảo lãnh tín dụng theo Nghị định số 34/2018/NĐ-CP và Luật Ngân sách nhà nước. Điều này giúp ta thấy được rằng, Quỹ bảo lãnh tín dụng luôn có sự hỗ trợ thường xuyên từ chính quyền địa phương, nhất là khi mở rộng quy mô hoạt động hoặc khi phát sinh rủi ro vượt quá năng lực tài chính hiện có.

Ngoài ra, pháp luật còn đặt ra cơ chế quản lý và sử dụng vốn nhàn rỗi của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Cụ thể, vốn nhàn rỗi của Quỹ bảo lãnh tín dụng được sử dụng để đầu tư mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, công trái xây dựng tổ quốc, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh, được gửi tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng thuộc danh sách các tổ chức tín dụng được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt trong từng thời kỳ theo nguyên tắc bảo toàn, phát triển vốn. Điều khoản này cho thấy sự linh hoạt và thận trọng trong quản lý tài chính của Quỹ, vừa đảm bảo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn, vừa giúp nguồn tiền nhàn rỗi được khai thác hiệu quả thay vì để tồn đọng.

Nhìn chung, điều luật này thể hiện tư duy quản lý tài chính chặt chẽ, hướng đến sự bền vững và tự chủ của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Cách ghi nhận rõ ràng, có phân cấp trách nhiệm và cơ chế sử dụng vốn linh hoạt cho thấy Nhà nước vừa đảm bảo kiểm soát được nguồn lực, vừa tạo điều kiện để Quỹ chủ động vận hành hiệu quả. Đây là nền tảng giúp Quỹ bảo lãnh tín dụng duy trì ổn định, hạn chế rủi ro tài chính, đồng thời khẳng định vai trò là công cụ hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương một cách thiết thực và lâu dài.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý