
Đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là chủ một doanh nghiệp nhỏ trên địa bàn tỉnh, từng được Quỹ bảo lãnh tín dụng hỗ trợ bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Gần đây, tôi nghe nói các Quỹ bảo lãnh tín dụng hằng năm đều phải được đánh giá về hiệu quả hoạt động để xem có sử dụng vốn đúng mục đích, có hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả hay không? Tuy nhiên, tôi chưa rõ việc đánh giá này được tiến hành như thế nào? Ai là người thực hiện và dựa trên những tiêu chí gì? Mong luật sư tư vấn giúp, xin cảm ơn.
MỤC LỤC
1. Việc đánh giá hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện như thế nào?
2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng là gì?
Trả lời:
1. Việc đánh giá hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện như thế nào?
Đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng là bước quan trọng nhằm phản ánh mức độ hoàn thành mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời bảo đảm việc quản lý, sử dụng vốn nhà nước hiệu quả, minh bạch. Do đó, tại Điều 49 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi tắt là “Nghị định số 34/2018/NĐ-CP”) đã ghi nhận như sau:
“Điều 49. Đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng
1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động hàng năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng, bao gồm:
a) Chỉ tiêu 1: Tăng trưởng doanh số bảo lãnh cấp tín dụng;
b) Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp;
c) Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ thu hồi nợ bắt buộc đối với hoạt động bảo lãnh tín dụng hàng năm của Quỹ;
d) Chỉ tiêu 4: Tổng thu nhập trừ tổng chi phí;
đ) Chỉ tiêu 5: Tình hình chấp hành pháp luật về đầu tư, quản lý và sử dụng vốn, tài sản của Quỹ, nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, chế độ báo cáo tài chính.
2. Nguyên nhân khách quan
Khi tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng tại khoản 1 Điều này, Quỹ bảo lãnh tín dụng được loại trừ các yếu tố khách quan về:
a) Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, chiến tranh và các nguyên nhân bất khả kháng khác;
b.) Thay đổi về chính sách chi phí bảo lãnh tín dụng làm ảnh hưởng đến kết quả tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng hoặc việc miễn, giảm chi phí bảo lãnh tín dụng theo quyết định của cấp có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này.
3. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể phương thức đánh giá hiệu quả và xếp loại Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Điều này
4. Báo cáo đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng hàng năm phải gửi cho Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 31 tháng 5 của năm tiếp theo để thực hiện quản lý nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ và quy định của pháp luật.”
* Lưu ý: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với Bộ Tài chính được hợp nhất thành Bộ Tài chính (căn cứ mục 2.3 Phần II Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và khoản 6 Điều 1 Nghị quyết số 176/2025/QH15 ngày 18/02/2025 của Quốc hội về cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV).
Theo đó, có 05 chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả hoạt động hàng năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng, gồm:
- Chỉ tiêu 1: Tăng trưởng doanh số bảo lãnh cấp tín dụng;
- Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp;
- Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ thu hồi nợ bắt buộc đối với hoạt động bảo lãnh tín dụng hàng năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng;
- Chỉ tiêu 4: Tổng thu nhập trừ tổng chi phí;
- Chỉ tiêu 5: Tình hình chấp hành pháp luật về đầu tư, quản lý và sử dụng vốn, tài sản của Quỹ bảo lãnh tín dụng, nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, chế độ báo cáo tài chính.
Từ đó, giúp chủ thể có thẩm quyền có cơ sở khách quan để xem xét toàn diện kết quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Các chỉ tiêu này phản ánh cả năng lực tài chính, khả năng quản lý rủi ro, cũng như mức độ tuân thủ pháp luật của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Qua đó, việc giám sát trở nên minh bạch, giúp nâng cao trách nhiệm, hiệu quả hoạt động và góp phần bảo đảm Quỹ vận hành ổn định.
Bên cạnh đó, khi tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng nêu trên, Quỹ bảo lãnh tín dụng được loại trừ các yếu tố khách quan về:
- Thứ nhất là thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, chiến tranh và các nguyên nhân bất khả kháng khác;
- Thứ hai là thay đổi về chính sách chi phí bảo lãnh tín dụng làm ảnh hưởng đến kết quả tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng hoặc việc miễn, giảm chi phí bảo lãnh tín dụng theo quyết định của cấp có thẩm quyền theo quy định.
Việc loại trừ nguyên nhân khách quan này giúp kết quả đánh giá phản ánh đúng năng lực quản lý và hoạt động thực tế của Quỹ bảo lãnh tín dụng, tránh ảnh hưởng từ các yếu tố bất khả kháng ngoài tầm kiểm soát. Ngoài ra, Bộ Tài chính là cơ quan có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể phương thức đánh giá hiệu quả và xếp loại Quỹ bao lãnh tín dụng, nhằm bảo đảm sự thống nhất trong toàn hệ thống. Báo cáo đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng hàng năm phải được gửi cho Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trước ngày 31 tháng 5 năm sau để phục vụ công tác quản lý, giám sát theo chức năng, nhiệm vụ và quy định pháp luật.
Như vậy, thông qua các chỉ tiêu cụ thể, việc đánh giá không chỉ phản ánh kết quả tài chính mà còn xem xét mức độ tuân thủ pháp luật và hiệu quả quản lý vốn nhà nước. Điều này giúp cơ quan quản lý có cơ sở khách quan để giám sát, điều chỉnh hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng, đồng thời khuyến khích các Quỹ bảo lãnh tín dụng nâng cao năng lực tài chính, chất lượng bảo lãnh và trách nhiệm xã hội. Qua đó, tạo nền tảng vững chắc cho việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn thuận lợi, an toàn và bền vững hơn.
2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng là gì?
Căn cứ Điều 14 Thông tư số 15/2019/TT-BTC ngày 18/3/2019 của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đã hướng dẫn chi tiết về chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng như sau:
“Điều 14. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động
1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động hàng năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng, bao gồm:
a) Chỉ tiêu 1: Tăng trưởng doanh số cấp bảo lãnh tín dụng;
b) Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp;
c) Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ thu hồi nợ bắt buộc đối với hoạt động bảo lãnh tín dụng hàng năm;
d) Chỉ tiêu 4: Tổng thu nhập trừ tổng chi phí;
đ) Chỉ tiêu 5: Tình hình chấp hành pháp luật về đầu tư, quản lý và sử dụng vốn, tài sản, nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, chế độ báo cáo tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng.
2. Cách thức xác định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động hàng năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng:
a) Chỉ tiêu tăng trưởng doanh số bảo lãnh cấp tín dụng được xác định trên doanh số bảo lãnh thực hiện quy định tại báo cáo hoạt động nghiệp vụ hàng năm do Chủ tịch Quỹ phê duyệt và số kế hoạch được Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng giao hàng năm;
b) Chỉ tiêu tỷ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp được xác định trên cơ sở tỷ lệ nợ thực tế đã trả thay cho doanh nghiệp quy định tại báo cáo hoạt động nghiệp vụ hàng năm do Chủ tịch Quỹ phê duyệt và số kế hoạch được Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng giao hàng năm;
c) Chỉ tiêu tỷ lệ thu hồi nợ bắt buộc được xác định bằng tỷ lệ số nợ gốc thực thu trên tổng nợ gốc phải thu đến hạn trong năm của khoản đã trả nợ thay cho bên được bảo lãnh và chỉ tiêu này xác định trên cơ sở tỷ lệ thực hiện quy định tại báo cáo hoạt động nghiệp vụ hàng năm do Chủ tịch Quỹ phê duyệt và kế hoạch được Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng giao hàng năm;
d) Chỉ tiêu tổng thu nhập trừ tổng chi phí được xác định trên số thực hiện quy định tại báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm theo quy định và số kế hoạch được Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng giao hàng năm;
đ) Chỉ tiêu tình hình chấp hành chế độ, chính sách pháp luật: Căn cứ vào việc chấp hành và thực hiện các chế độ chính sách Nhà nước đã ban hành trong lĩnh vực tài chính, bao gồm: chế độ hạch toán kế toán, kiểm toán; chế độ báo cáo tài chính đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng, chế độ về chi tiêu; chế độ về mua sắm và quản lý tài sản để xác định chỉ tiêu này. Việc chấp hành chế độ, chính sách pháp luật là chấp hành đúng quy định, không có những hành vi thực hiện sai, bỏ sót, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời hoặc không thực hiện.
3. Các chỉ tiêu quy định tại điểm a, b, c, d khoản 2 Điều này không được điều chỉnh trong suốt kỳ thực hiện kế hoạch khi thực hiện đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ. Trường hợp điều chỉnh các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ tại khoản 1 và khoản 2 Điều này do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng (thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ, rủi ro chính trị), Chủ tịch Quỹ xem xét, quyết định sau khi có ý kiến chấp thuận của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh.
4. Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng xây dựng các chỉ tiêu về tăng trưởng doanh số cấp bảo lãnh tín dụng, tỷ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp, tỷ lệ thu hồi nợ bắt buộc, tổng thu nhập trừ tổng chi phí trong kế hoạch tài chính hàng năm và các chỉ tiêu khác (nếu có) báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét có ý kiến chấp thuận trước khi ban hành quyết định. Thời gian báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh các chỉ tiêu này trước ngày 15 tháng 03 năm kế hoạch để làm căn cứ đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.
5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng quy định tại điểm a, b, c khoản 2 Điều này được áp dụng đối với các khoản bảo lãnh và nhận nợ bắt buộc kể từ thời điểm Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực thi hành.”
Theo đó, điều luật này một lần nữa nhấn mạnh lại 05 chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động hàng năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng như tại Điều 49 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP đã phân tích phía trên bài viết này. Không những thế, điều luật này đưa ra cách thức xác định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động hàng năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng một cách rõ ràng và chi tiết, gồm:
- Chỉ tiêu tăng trưởng doanh số bảo lãnh cấp tín dụng được xác định trên doanh số bảo lãnh thực hiện quy định tại báo cáo hoạt động nghiệp vụ hàng năm do Chủ tịch Quỹ phê duyệt và số kế hoạch được Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng giao hàng năm;
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp được xác định trên cơ sở tỷ lệ nợ thực tế đã trả thay cho doanh nghiệp quy định tại báo cáo hoạt động nghiệp vụ hàng năm do Chủ tịch Quỹ phê duyệt và số kế hoạch được Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng giao hàng năm;
- Chỉ tiêu tỷ lệ thu hồi nợ bắt buộc được xác định bằng tỷ lệ số nợ gốc thực thu trên tổng nợ gốc phải thu đến hạn trong năm của khoản đã trả nợ thay cho bên được bảo lãnh và chỉ tiêu này xác định trên cơ sở tỷ lệ thực hiện quy định tại báo cáo hoạt động nghiệp vụ hàng năm do Chủ tịch Quỹ phê duyệt và kế hoạch được Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng giao hàng năm;
- Chỉ tiêu tổng thu nhập trừ tổng chi phí được xác định trên số thực hiện quy định tại báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm theo quy định và số kế hoạch được Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng giao hàng năm;
- Chỉ tiêu tình hình chấp hành chế độ, chính sách pháp luật: Căn cứ vào việc chấp hành và thực hiện các chế độ chính sách Nhà nước đã ban hành trong lĩnh vực tài chính, bao gồm: chế độ hạch toán kế toán, kiểm toán; chế độ báo cáo tài chính đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng, chế độ về chi tiêu; chế độ về mua sắm và quản lý tài sản để xác định chỉ tiêu này. Việc chấp hành chế độ, chính sách pháp luật là chấp hành đúng quy định, không có những hành vi thực hiện sai, bỏ sót, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời hoặc không thực hiện.
Đối với 04 chỉ tiêu đầu này sẽ không được điều chỉnh trong suốt kỳ thực hiện kế hoạch khi thực hiện đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Trường hợp điều chỉnh các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng nêu trên do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng (thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ, rủi ro chính trị), Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ xem xét, quyết định sau khi có ý kiến chấp thuận của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh.
Việc quy định rõ cách thức xác định các chỉ tiêu giúp bảo đảm tính khách quan, minh bạch và thống nhất trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Các chỉ tiêu được xây dựng dựa trên số liệu thực tế trong báo cáo tài chính, báo cáo nghiệp vụ và kế hoạch đã được phê duyệt, qua đó phản ánh chính xác kết quả hoạt động và năng lực điều hành của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Đồng thời, việc đánh giá cả yếu tố tuân thủ pháp luật, chế độ tài chính và quản lý tài sản thể hiện yêu cầu về sự minh bạch, trách nhiệm trong quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và uy tín của Quỹ bảo lãnh tín dụng.
Để đảm bảo sự chặt chẽ và minh bạch trong quy trình quản lý, Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng tiến hành xây dựng các chỉ tiêu về tăng trưởng doanh số cấp bảo lãnh tín dụng, tỷ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp, tỷ lệ thu hồi nợ bắt buộc, tổng thu nhập trừ tổng chi phí trong kế hoạch tài chính hàng năm và các chỉ tiêu khác (nếu có) báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét có ý kiến chấp thuận trước khi ban hành quyết định. Thời gian báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh các chỉ tiêu này trước ngày 15 tháng 03 năm kế hoạch để làm căn cứ đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng, góp phần nâng cao tính kỷ luật, trách nhiệm và hiệu quả trong công tác lập kế hoạch và điều hành của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Đối với 03 chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín đầu tiên được áp dụng đối với các khoản bảo lãnh và nhận nợ bắt buộc kể từ thời điểm Nghị định số 34/2018/NĐ-CP có hiệu lực thi hành.
3. Phương pháp đánh giá hiệu quả và kết quả xếp loại Quỹ bảo lãnh tín dụng được pháp luật quy định ra sao?
Để giúp các cơ quan quản lý nhà nước và Quỹ bảo lãnh tín dụng xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ, năng lực quản lý cũng như hiệu quả hoạt động trong từng năm tài chính, Điều 15 Thông tư số 15/2019/TT-BTC ngày 18/3/2019 của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đã nêu rõ về phương pháp đánh giá hiệu quả và kết quả xếp loại Quỹ bảo lãnh tín dụng như sau:
“Điều 15. Phương pháp đánh giá hiệu quả và kết quả xếp loại Quỹ bảo lãnh tín dụng
1. Chỉ tiêu 1: Tăng trưởng doanh số bảo lãnh cấp tín dụng
a) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại A khi tỷ lệ tăng trưởng doanh số bảo lãnh thực hiện tối thiểu bằng 90% kế hoạch được giao trong năm;
b) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại B khi tỷ lệ tăng trưởng doanh số bảo lãnh thực hiện đạt từ 75% đến dưới 90% kế hoạch được giao;
c) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại C khi tỷ lệ tăng trưởng doanh số bảo lãnh thực hiện đạt dưới 75% kế hoạch được giao.
2. Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
a) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại A khi tỷ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trên tổng dư nợ bảo lãnh thực hiện bằng hoặc thấp hơn kế hoạch được giao;
b) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại B khi tỷ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trên tổng dư nợ bảo lãnh thực hiện từ trên 100% đến 110% kế hoạch được giao;
c) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại C khi tỷ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trên tổng dư nợ bảo lãnh thực hiện cao hơn 110% kế hoạch được giao.
3. Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ thu hồi nợ bắt buộc
a) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại A khi tỷ lệ thu hồi nợ bắt buộc thực hiện tối thiểu bằng 90% kế hoạch được giao trong năm;
b) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại B khi tỷ lệ thu hồi nợ bắt buộc thực hiện đạt từ 75% đến dưới 90% kế hoạch được giao;
c) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại C khi tỷ lệ thu hồi nợ bắt buộc thực hiện đạt dưới 75% kế hoạch được giao.
4. Chỉ tiêu 4: Tổng thu nhập trừ tổng chi phí
a) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại A khi tổng thu nhập trừ tổng chi phí thực hiện tối thiểu bằng 90% kế hoạch được giao trong năm;
b) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại B khi tổng thu nhập trừ tổng chi phí thực hiện đạt từ 75% đến dưới 90% kế hoạch được giao;
c) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại C khi tổng thu nhập trừ tổng chi phí thực hiện đạt dưới 75% kế hoạch được giao.
5. Chỉ tiêu 5: Tình hình chấp hành chế độ, chính sách pháp luật
a) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại A nếu không bị các cơ quan có thẩm quyền ra thông báo hoặc kết luận về các vi phạm cơ chế, chính sách thuộc nội dung tại tiết đ khoản 2 Điều 14 Thông tư này;
b) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại B khi vi phạm một trong các trường hợp sau: Bị Bộ Tài chính hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhắc nhở bằng văn bản về việc nộp báo cáo tình hình hoạt động, báo cáo tài chính và các báo cáo khác không đúng quy định, không đúng hạn từ lần thứ hai đối với từng loại báo cáo; Bị các cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, số tiền từng lần bị xử phạt không vượt quá 50.000.000 đồng (không bao gồm số tiền phải nộp để thực hiện khắc phục hậu quả) phát sinh trong năm tài chính thực hiện việc đánh giá xếp loại Quỹ;
c) Quỹ bảo lãnh tín dụng xếp loại C khi vi phạm một trong các trường hợp sau: Không nộp báo cáo tình hình hoạt động, báo cáo tài chính và các báo cáo khác theo quy định hoặc nộp báo cáo không đúng quy định, đúng thời hạn bị Bộ Tài chính hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhắc nhở bằng văn bản từ 3 (ba) lần trở lên đối với từng loại báo cáo; Bị các cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính bằng các hình thức phạt tiền, số tiền từng lần bị xử phạt từ trên 50.000.000 đồng trở lên (không bao gồm số tiền phải nộp để thực hiện khắc phục hậu quả) phát sinh trong năm tài chính thực hiện việc đánh giá xếp loại Quỹ; Người quản lý điều hành Quỹ bảo lãnh tín dụng có hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ của Quỹ đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
6. Việc đánh giá hiệu quả và xếp loại Quỹ bảo lãnh tín dụng thực hiện trên cơ sở so sánh giữa kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ được giao với kết quả thực hiện và kết quả giám sát hoạt động Quỹ bảo lãnh tín dụng.”
Như vậy, đối với từng chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả và kết quả xếp loại Quỹ bảo lãnh tín dụng, điều khoản này đã đưa ra cụ thể từng phương pháp tương ứng một cách trình tự, chặt chẽ. Việc đánh giá hiệu quả và xếp loại Quỹ bảo lãnh tín dụng thực hiện trên cơ sở so sánh giữa kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ được giao với kết quả thực hiện và kết quả giám sát hoạt động Quỹ bảo lãnh tín dụng.
Việc xác định phương pháp cụ thể cho từng chỉ tiêu giúp quá trình đánh giá trở nên minh bạch, dễ kiểm chứng và thống nhất giữa các Quỹ bảo lãnh tín dụng. Đồng thời, việc so sánh giữa kế hoạch, mục tiêu được giao với kết quả thực tế cho thấy mức độ hoàn thành nhiệm vụ, qua đó phản ánh hiệu quả quản lý, năng lực điều hành và trách nhiệm của Quỹ bảo lãnh tín dụng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trân trọng./.