Giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?

Giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?

Giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là một người dân, cũng đang quan tâm đến hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa phương vì nhiều doanh nghiệp nhỏ, trong đó có cơ sở của tôi, được Quỹ bảo lãnh tín dụng này hỗ trợ bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Tôi nghe nói hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng phải được giám sát và đánh giá hiệu quả thường xuyên để đảm bảo minh bạch, tránh thất thoát và bảo đảm đúng mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, tôi chưa rõ cơ quan nào thực hiện việc giám sát này? Nội dung giám sát là gì và cách đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định ra sao? Mong luật sư tư vấn giúp tôi, xin cảm ơn.

MỤC LỤC

1. Cơ quan giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cũng như nội dung giám sát được quy định như thế nào?

2. Căn cứ thực hiện giám sát và phương thức giám sát được thực hiện ra sao?

 

Trả lời:

1. Cơ quan giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cũng như nội dung giám sát được quy định như thế nào?

Căn cứ theo Điều 46 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi tắt là “Nghị định số 34/2018/NĐ-CP”) ghi nhận về cơ quan giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng như sau:

Điều 46. Cơ quan giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng

1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện giám sát và đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

2. Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam các tỉnh, thành phố và các đơn vị có liên quan trên địa bàn giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện giám sát và đánh giá tình hình hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.”

Như vậy, việc giám sát và đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện. Việc giao thẩm quyền này cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giúp đảm bảo công tác quản lý Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện chặt chẽ, phù hợp với điều kiện và định hướng phát triển kinh tế của từng địa phương.

Bên cạnh đó, Sở Tài chính đóng vai trò là cơ quan đầu mối, chủ trì phối hợp với Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam các tỉnh, thành phố và các đơn vị có liên quan trên địa bàn để giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện công tác giám sát và đánh giá tình hình hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Cơ chế phối hợp này bảo đảm tính khách quan, toàn diện và chuyên môn hóa trong quá trình đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

Việc quy định rõ ràng cơ quan chịu trách nhiệm giám sát và đánh giá giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời đảm bảo tính minh bạch, công khai và hiệu quả trong hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Qua đó, Nhà nước có thể kịp thời phát hiện, điều chỉnh hoặc hỗ trợ để Quỹ bảo lãnh tín dụng hoạt động đúng mục tiêu, phục vụ tốt hơn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại địa phương.

Ngoài ra, về nội dung giám sát, Điều 47 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP đã xác định rõ như sau:

Điều 47. Nội dung giám sát

1. Giám sát việc bảo toàn vốn.

2. Giám sát việc quản lý và sử dụng vốn, tài sản

a) Hoạt động huy động vốn;

b) Sử dụng vốn;

c) Cấp bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Nghị định này và quy định nội bộ của Quỹ;

d) Quản lý tài sản.

3. Giám sát kết quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng

a) Việc thực hiện kế hoạch hoạt động của Quỹ;

b) Kết quả hoạt động của Quỹ: Thu nhập, kết quả tài chính của Quỹ;

c) Phân phối kết quả tài chính và trích lập các quỹ.

4. Giám sát thực hiện chế độ tiền lương của Quỹ.

5. Các nội dung giám sát liên quan khác theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.”

Theo đó, chủ thể có thẩm quyền sẽ giám sát việc bảo toàn vốn, việc quản lý và sử dụng vốn, tài sản của Quỹ bảo lãnh tín dụng, gồm hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn, cấp bảo lãnh tín dụng, quản lý tài sản. Và các nội dung khác như:

- Giám sát kết quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng:

+ Việc thực hiện kế hoạch hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng;

+ Kết quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng: Thu nhập, kết quả tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng;

+ Phân phối kết quả tài chính và trích lập các quỹ;

- Giám sát thực hiện chế độ tiền lương của Quỹ bảo lãnh tín dụng;

- Các nội dung giám sát liên quan khác theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Nội dung này thể hiện rõ vai trò của cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo đảm sự minh bạch và hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Việc giám sát không chỉ dừng lại ở quản lý vốn và tài sản, mà còn bao quát toàn bộ quy trình từ huy động, sử dụng vốn đến cấp bảo lãnh và phân phối kết quả tài chính. Qua đó, giúp ngăn ngừa rủi ro, sai phạm và lãng phí nguồn lực, đồng thời đảm bảo Quỹ bảo lãnh tín dụng vận hành đúng mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, việc giám sát chế độ tiền lương và các nội dung khác theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh góp phần duy trì kỷ cương tài chính, nâng cao trách nhiệm quản lý và tính công khai trong hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

2. Căn cứ thực hiện giám sát và phương thức giám sát được thực hiện ra sao?

Để có cơ sở pháp lý cũng như căn cứ để thực hiện việc giám sát, pháp luật đã ghi nhận về căn cứ thực hiện giám sát và phương thức giám sát tại Điều 48 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP như sau:

Điều 48. Căn cứ thực hiện giám sát và phương thức giám sát

1. Quy định về tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng tại Nghị định này, các văn bản hướng dẫn Nghị định.

2. Điều lệ tổ chức và hoạt động và các quy chế hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng do các cấp thẩm quyền ban hành.

3. Kế hoạch hoạt động hàng năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.

4. Báo cáo tài chính năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng đã được kiểm toán độc lập và được Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng thông qua; báo cáo tài chính 06 tháng, năm; báo cáo nghiệp vụ định kỳ và các báo cáo đột xuất khác theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý nhà nước.

5. Kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán tại Quỹ bảo lãnh tín dụng của các cơ quan chức năng đã công bố theo quy định hoặc đã gửi bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

6. Các thông tin, tài liệu có liên quan khác theo quy định của pháp luật.

7. Phương thức giám sát tài chính thực hiện bằng phương pháp giám sát trực tiếp hoặc giám sát gián tiếp thông qua các báo cáo của Quỹ bảo lãnh tín dụng để phát hiện kịp thời các rủi ro về tài chính, hạn chế trong quản lý tài chính của Quỹ và có cảnh báo, giải pháp xử lý.”

Trước tiên, điều khoản này khẳng định căn cứ đầu tiên của việc giám sát là quy định về tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn Nghị định. Cùng với những căn cứ giám sát khác có thể kể đến đó là:

- Điều lệ tổ chức và hoạt động và các quy chế hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng do các cấp thẩm quyền ban hành;

- Kế hoạch hoạt động hàng năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt;

- Báo cáo tài chính năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng đã được kiểm toán độc lập và được Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng thông qua; báo cáo tài chính 06 tháng, năm; báo cáo nghiệp vụ định kỳ và các báo cáo đột xuất khác theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý nhà nước;

- Kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán tại Quỹ bảo lãnh tín dụng của các cơ quan chức năng đã công bố theo quy định hoặc đã gửi bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

- Các thông tin, tài liệu có liên quan khác theo quy định của pháp luật.

Sự ghi nhận này có ý nghĩa thể hiện cơ sở pháp lý toàn diện và đa chiều cho hoạt động giám sát Quỹ bảo lãnh tín dụng. Việc xác định rõ các căn cứ giúp bảo đảm rằng việc giám sát không chỉ dựa trên quy định chung mà còn gắn liền với thực tiễn vận hành và minh chứng tài chính cụ thể của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Đồng thời, điều này tạo nền tảng cho cơ quan có thẩm quyền đánh giá khách quan, phát hiện kịp thời sai phạm hoặc rủi ro, từ đó nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả trong quản lý, điều hành hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

Bên cạnh đó, pháp luật còn đặt ra phương thức giám sát tài chính, cụ thể thực hiện bằng phương pháp giám sát trực tiếp hoặc giám sát gián tiếp thông qua các báo cáo của Quỹ bảo lãnh tín dụng để phát hiện kịp thời các rủi ro về tài chính, hạn chế trong quản lý tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng và có cảnh báo, giải pháp xử lý. Sự kết hợp này cho phép cơ quan quản lý vừa nắm bắt tình hình thực tế, vừa phân tích thông tin qua báo cáo, đảm bảo phát hiện sớm rủi ro và kịp thời đưa ra biện pháp xử lý, khắc phục hạn chế trong quản lý tài chính.

Tóm lại, điều khoản này đã thiết lập khung giám sát toàn diện, có cơ sở pháp lý rõ ràng và phương pháp linh hoạt. Việc quy định cụ thể căn cứ và phương thức giám sát không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng mà còn góp phần bảo đảm an toàn tài chính, phòng ngừa rủi ro và thúc đẩy hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng theo hướng minh bạch, bền vững.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý