
Điều kiện nào đương nhiên được xóa án tích? Phối hợp xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích và cập nhật thông tin lý lịch tư pháp về đương nhiên được xóa án tích sau khi có kết quả xác minh được quy định thực hiện như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi muốn được tìm hiểu rõ về những điều kiện cụ thể để một người có thể đương nhiên được xóa án tích theo quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời, tôi cũng quan tâm đến việc pháp luật quy định như thế nào về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc xác minh các điều kiện đương nhiên xóa án tích, cũng như quy trình cập nhật thông tin lý lịch tư pháp sau khi đã có kết quả xác minh, nhằm bảo đảm tính chính xác, đầy đủ và kịp thời của cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp? Mong được Luật sư giải đáp, xin cảm ơn!
MỤC LỤC
1. Điều kiện nào đương nhiên được xóa án tích?
Trả lời:
1. Điều kiện nào đương nhiên được xóa án tích?
Căn cứ theo Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015
“Điều 70. Đương nhiên được xóa án tích
1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
3. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này.”
Theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành, đương nhiên được xóa án tích là một cơ chế pháp lý nhân đạo, tạo điều kiện cho người đã chấp hành xong hình phạt được khôi phục lại tình trạng pháp lý bình thường nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định (trừ trường hợp phạm các tội thuộc Chương XIII – các tội xâm phạm an ninh quốc gia và Chương XXVI – các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh).
Ngoài ra, pháp luật còn quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong việc cập nhật, ghi nhận tình hình án tích và có nghĩa vụ cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận “không có án tích” khi cá nhân đáp ứng đầy đủ điều kiện nêu trên.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, cơ chế đương nhiên xóa án tích không chỉ là công cụ pháp lý để ghi nhận sự cải tạo và tái hòa nhập của người chấp hành án, mà còn là một thiết chế quan trọng nhằm bảo đảm tính nhân đạo, công bằng và khuyến khích người phạm tội cải tạo tốt, góp phần ổn định trật tự xã hội và củng cố niềm tin của công dân vào chính sách hình sự của Nhà nước.
2. Việc phối hợp xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích được quy định thực hiện như thế nào?
Căn cứ theo Điều 17 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật lý lịch tư pháp và Điều 25 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Công An, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp quy định như sau:
“Điều 17. Phối hợp xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích
1. Trong trường hợp người bị kết án đã có đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật hình sự, nhưng chưa nhận được Giấy chứng nhận xóa án tích của Tòa án thì Sở Tư pháp tiến hành xác minh về việc người đó có bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong thời hạn đang có án tích hay không. Việc xác minh được thực hiện như sau:
a) Sở Tư pháp gửi văn bản yêu cầu xác minh hoặc trực tiếp xác minh tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã), cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú, làm việc sau khi chấp hành xong bản án;
b) Trong quá trình xác minh tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức, nếu thấy cần thiết, Sở Tư pháp thực hiện xác minh tại cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan về việc người bị kết án có đang bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hay không.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp thông tin theo yêu cầu của Sở Tư pháp.
Cán bộ tư pháp – hộ tịch giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện xác minh theo yêu cầu của Sở Tư pháp.
3. Sở Tư pháp gửi kết quả xác minh cho Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hoàn thành việc xác minh theo quy định tại khoản 1 Điều này.
4. Trường hợp Lý lịch tư pháp do Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia lập theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 26 của Luật Lý lịch tư pháp, thì Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia tiến hành xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người bị kết án theo quy định tại khoản 1 Điều này.”
và
“Điều 25. Phối hợp xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích
1. Việc phối hợp xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức để cập nhật thông tin vào Lý lịch tư pháp của người bị kết án theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 17 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP được thực hiện như sau:
a) Sở Tư pháp gửi văn bản yêu cầu xác minh (theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này) hoặc trực tiếp xác minh tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú sau khi chấp hành xong bản án về việc người đó bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong thời hạn đang có án tích hay không;
b) Cán bộ tư pháp - hộ tịch giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện xác minh theo yêu cầu của Sở Tư pháp. Trường hợp cần thiết, cán bộ tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để phối hợp với Công an cấp xã thực hiện xác minh;
c) Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ gửi văn bản thông báo kết quả xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích (theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này) cho Sở Tư pháp trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu xác minh;
d) Trường hợp Sở Tư pháp trực tiếp xác minh tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú sau khi chấp hành xong bản án, thì việc trực tiếp xác minh phải được lập thành biên bản. Biên bản làm việc phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản, họ tên, chức vụ của người tham gia, nội dung làm việc, kết quả xác minh, giấy tờ văn bản kèm theo (nếu có). Biên bản được lập thành hai bản, có chữ ký của người đại diện các cơ quan tham gia và phải được đóng dấu xác nhận của cơ quan, tổ chức nơi thực hiện việc xác minh.
2. Trường hợp Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia tiến hành xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cập nhật vào Lý lịch tư pháp của người bị kết án thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Trường hợp kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này cho thấy người bị kết án có thể đang bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp thực hiện xác minh tại cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan để làm rõ về việc người bị kết án có đang bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hay không. Việc tiến hành xác minh được thực hiện như sau:
a) Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp gửi văn bản yêu cầu xác minh (theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch);
b) Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra có nhiệm vụ gửi văn bản thông báo kết quả xác minh (theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này) cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp đã yêu cầu trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu.
4. Ủy ban nhân dân cấp xã, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan Thi hành án dân sự có nhiệm vụ gửi văn bản thông báo kết quả xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp khi nhận được yêu cầu của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu.”
Theo đó, khi người bị kết án đã có đủ thời gian để được xóa án tích theo Bộ luật Hình sự nhưng chưa nhận Giấy chứng nhận xóa án tích của Tòa án, Sở Tư pháp phải chủ động tiến hành xác minh về việc cá nhân đó có thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn còn án tích hay không. Quá trình xác minh được thực hiện trước hết tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc. Nếu thông tin chưa rõ ràng hoặc có dấu hiệu cần kiểm tra thêm, Sở Tư pháp có trách nhiệm phối hợp trực tiếp với cơ quan tiến hành tố tụng để làm rõ tình trạng pháp lý của người bị kết án.
Đồng thời, Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức có liên quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin khi được yêu cầu; cán bộ tư pháp – hộ tịch có trách nhiệm hỗ trợ xác minh. Sau khi hoàn tất, Sở Tư pháp phải gửi kết quả xác minh cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia trong thời hạn 05 ngày làm việc, bảo đảm kịp thời và minh bạch. Trường hợp cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp do Trung tâm trực tiếp lập, thì Trung tâm cũng phải tuân thủ quy trình xác minh tương tự để bảo đảm thống nhất và đồng bộ dữ liệu trên toàn quốc.
Như vậy, hệ thống quy định này đã thiết lập một cơ chế phối hợp chặt chẽ, vừa đảm bảo tính chính xác, khách quan và đầy đủ của thông tin, vừa tránh tình trạng bỏ sót hoặc chậm trễ. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để việc xác nhận điều kiện đương nhiên xóa án tích được thực hiện đúng pháp luật, minh bạch, đồng thời góp phần bảo đảm quyền tái hòa nhập xã hội của người chấp hành án và tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực lý lịch tư pháp.
3. Việc cập nhật thông tin lý lịch tư pháp về đương nhiên được xóa án tích sau khi có kết quả xác minh được quy định thực hiện như thế nào?
Căn cứ theo Điều 18 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật lý lịch tư pháp quy định liên quan đến cập nhật thông tin lý lịch tư pháp về đương nhiên được xóa án tích sau khi có kết quả xác minh như sau:
“Điều 18. Cập nhật thông tin lý lịch tư pháp về đương nhiên được xóa án tích sau khi có kết quả xác minh
Căn cứ vào kết quả xác minh theo quy định tại Điều 17 của Nghị định này, Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp cập nhật thông tin vào Lý lịch tư pháp của người bị kết án như sau:
1. Ghi vào Lý lịch tư pháp của người bị kết án là “đã được xóa án tích” nếu người đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Không phạm tội mới trong thời hạn đang có án tích theo quy định của Bộ luật hình sự;
b) Có án tích về một tội mà lại bị kết án hoặc bị điều tra, truy tố, xét xử về hành vi phạm tội xảy ra trước hoặc sau thời hạn đang có án tích về tội đó theo quy định của Bộ luật hình sự.
2. Trường hợp người đang có án tích về một tội mà lại bị kết án bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật về hành vi phạm tội xảy ra trong thời hạn đang có án tích về tội đó theo quy định của Bộ luật hình sự thì ghi là “có án tích” đối với tội đó.
3. Nếu người có án tích về một tội mà đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc bị kết án nhưng bản án chưa có hiệu lực pháp luật về hành vi phạm tội xảy ra trong thời hạn đang có án tích về tội đó theo quy định của Bộ luật hình sự thì chưa cập nhật thông tin về đương nhiên xóa án tích trong Lý lịch tư pháp của người đó mà chờ kết quả xét xử của Tòa án.”
Thông qua quy đinh trên, có thể khẳng định rằng việc cập nhật thông tin lý lịch tư pháp về đương nhiên được xóa án tích sau khi có kết quả xác minh được thực hiện theo một cơ chế chặt chẽ, khoa học và mang tính phân loại rõ ràng. Nguyên tắc cốt lõi là chỉ khi có căn cứ pháp lý vững chắc chứng minh người bị kết án không phạm tội mới trong thời hạn có án tích hoặc việc phạm tội (nếu có) thuộc trường hợp không làm phát sinh án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự thì thông tin trong lý lịch tư pháp mới được cập nhật theo hướng “đã được xóa án tích”.
Ngược lại, nếu người đó tiếp tục phạm tội trong thời hạn án tích chưa được xóa, hoặc đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử mà chưa có bản án có hiệu lực pháp luật, thì lý lịch tư pháp phải thể hiện chính xác tình trạng là “có án tích” hoặc chưa được xác định việc xóa án tích. Điều này bảo đảm rằng việc ghi nhận trong lý lịch tư pháp phản ánh đúng thực trạng pháp lý của người bị kết án, tránh tình trạng cập nhật thiếu chính xác hoặc trái với căn cứ pháp luật.
Tóm lại, cơ chế cập nhật thông tin nêu trên không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm tính minh bạch, khách quan và thống nhất của hệ thống dữ liệu lý lịch tư pháp, mà còn góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, đồng thời tạo công cụ hữu hiệu cho các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc tra cứu, xác minh thông tin phục vụ công tác quản lý xã hội.
Trân trọng./.