Ban kiểm soát, Kiểm soát viên của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định như thế nào?

Ban kiểm soát, Kiểm soát viên của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định như thế nào?

Ban kiểm soát, Kiểm soát viên của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Khi tìm hiểu về hoạt động giám sát và kiểm tra nội bộ của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, tôi được biết Quỹ có Ban kiểm soát và các Kiểm soát viên nhằm bảo đảm việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản được minh bạch, đúng quy định. Tuy nhiên, tôi chưa rõ Ban kiểm soát và Kiểm soát viên của Quỹ được tổ chức, bổ nhiệm và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn như thế nào theo quy định của pháp luật?Mong luật sư giải đáp giúp tôi, xin cảm ơn.

MỤC LỤC

1. Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định như thế nào?

2. Ban kiểm soát, Kiểm soát viên của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định như thế nào?

 

Trả lời:

1. Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định như thế nào?

Trong bối cảnh doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, việc hình thành các cơ chế hỗ trợ tài chính là cần thiết để tạo động lực cho nhóm này phát triển bền vững. Căn cứ tại Điều 20 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017 đã quy định rõ về quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, một công cụ tài chính đặc thù của Nhà nước nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tăng cường năng lực cạnh tranh. Cụ thể:

Điều 20. Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa

1. Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, do Thủ tướng Chính phủ thành lập, thực hiện các chức năng sau đây:

a) Cho vay, tài trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị;

b) Tiếp nhận và quản lý nguồn vốn vay, tài trợ, viện trợ, đóng góp, ủy thác của các tổ chức, cá nhân để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

2. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”

Theo đó, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được biết đến là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Việc tổ chức hoạt động theo nguyên tắc “không vì lợi nhuận” thể hiện rõ mục tiêu của quỹ là phục vụ lợi ích chung, tập trung vào việc hỗ trợ doanh nghiệp chứ không đặt nặng mục tiêu thu hồi hay sinh lời. Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa này do Thủ tướng Chính phủ thành lập, thực hiện các chức năng sau đây:

- Cho vay, tài trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị;

- Tiếp nhận và quản lý nguồn vốn vay, tài trợ, viện trợ, đóng góp, ủy thác của các tổ chức, cá nhân để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Như vậy, Điều 20 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017 đã đặt nền móng pháp lý vững chắc cho sự ra đời và hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quỹ không chỉ là công cụ tài chính của Nhà nước mà còn là “bệ đỡ” quan trọng giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt qua rào cản vốn, mở rộng sản xuất, đổi mới sáng tạo và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị. Thông qua cơ chế hỗ trợ linh hoạt, minh bạch và định hướng phát triển bền vững, Quỹ góp phần thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa trở thành động lực tăng trưởng kinh tế, đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.

2. Ban kiểm soát, Kiểm soát viên của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định như thế nào?

Trong cơ cấu tổ chức của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, bên cạnh Hội đồng thành viên và Ban Giám đốc, Ban kiểm soát và Kiểm soát viên giữ vai trò then chốt trong việc đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả và tuân thủ pháp luật trong toàn bộ hoạt động của Quỹ. Do đó, Điều 9 Nghị định số 39/2019/NĐ-CP ngày 10/5/2019 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi tắt là “Nghị định số 39/2019/NĐ-CP”) được sửa đổi bởi Nghị định số 45/2024/NĐ-CP ngày 26/4/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 39/2019/NĐ-CP đã nêu rõ:

Điều 9. Ban kiểm soát, kiểm soát viên

1. Căn cứ quy mô của Quỹ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định thành lập Ban kiểm soát có từ 01 đến 05 Kiểm soát viên, trong đó có Trưởng Ban kiểm soát. Nhiệm kỳ Kiểm soát viên không quá 05 năm và có thể được bổ nhiệm lại nhưng không quá 02 nhiệm kỳ liên tục. Trường hợp Ban kiểm soát chỉ có 01 Kiểm soát viên thì Kiểm soát viên đó đồng thời là Trưởng Ban kiểm soát và phải đáp ứng tiêu chuẩn của Trưởng Ban kiểm soát.

2. Tiêu chuẩn, điều kiện của Trưởng Ban kiểm soát, Kiểm soát viên.

a) Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thuộc một trong các chuyên ngành về kinh tế, tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán, luật, quản trị kinh doanh và có ít nhất 03 năm kinh nghiệm làm việc; Trưởng Ban kiểm soát phải có ít nhất 05 năm kinh nghiệm làm việc;

b) Không phải là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh chị em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người quản lý Quỹ;

c) Không được là người quản lý Quỹ; không được là Kiểm soát viên của doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp nhà nước; không phải là người lao động của Quỹ;

d) Không đồng thời là cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc không phải là người quản lý, điều hành tại doanh nghiệp khác;

3. Quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát

a) Giám sát việc tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch hoạt động 05 năm, hàng năm của Quỹ;

b) Giám sát và đánh giá việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của thành viên Hội đồng thành viên và Hội đồng thành viên, Giám đốc;

c) Giám sát, đánh giá thực trạng tài chính, hoạt động của Quỹ, thực trạng vận hành và hiệu lực các quy chế hoạt động của Quỹ;

d) Giám sát thực hiện các dự án đầu tư lớn; hợp đồng, giao dịch mua, bán và giao dịch kinh tế khác có quy mô lớn của Quỹ theo yêu cầu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư;

đ) Lập và gửi báo cáo đánh giá, kiến nghị về nội dung quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, điểm d khoản này cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Hội đồng thành viên.

4. Trách nhiệm của Kiểm soát viên

a) Tuân thủ pháp luật, quyết định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và đạo đức nghề nghiệp trong thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định tại Nghị định này;

b) Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích hợp pháp của các bên tại Quỹ;

c) Chịu trách nhiệm cá nhân khi lợi dụng danh nghĩa Quỹ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;

d) Báo cáo kịp thời cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đồng thời yêu cầu Kiểm soát viên chấm dứt hành vi vi phạm và khắc phục hậu quả trong trường hợp phát hiện Kiểm soát viên đó vi phạm quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm được giao;

đ) Báo cáo kịp thời cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Kiểm soát viên khác và cá nhân có liên quan, đồng thời yêu cầu cá nhân đó chấm dứt hành vi vi phạm và khắc phục hậu quả trong trường hợp sau đây: Phát hiện có thành viên Hội đồng thành viên, Giám đốc và người quản lý khác làm trái quy định về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ hoặc có nguy cơ làm trái quy định đó; phát hiện hành vi vi phạm pháp luật, trái quy định tại Nghị định này hoặc quy chế hoạt động của Quỹ;

e) Trường hợp vi phạm trách nhiệm quy định tại khoản này mà gây thiệt hại cho Quỹ thì Kiểm soát viên phải chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới bồi thường thiệt hại đó; tùy theo tính chất, mức độ vi phạm và thiệt hại còn có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; hoàn trả lại cho Quỹ mọi thu nhập và lợi ích có được do vi phạm trách nhiệm quy định tại khoản này.

5. Chế độ làm việc của Ban kiểm soát

a) Trưởng Ban kiểm soát xây dựng kế hoạch công tác hằng tháng, hằng quý và hằng năm của Ban kiểm soát; phân công nhiệm vụ và công việc cụ thể cho từng Kiểm soát viên;

b) Kiểm soát viên chủ động và độc lập thực hiện nhiệm vụ và công việc được phân công; đề xuất, kiến nghị thực hiện nhiệm vụ, công việc kiểm soát khác ngoài kế hoạch, ngoài phạm vi được phân công khi xét thấy cần thiết;

c) Ban kiểm soát họp ít nhất mỗi tháng một lần để rà soát, đánh giá, thông qua báo cáo kết quả kiểm soát trong tháng trình Bộ Kế hoạch và Đầu tư; thảo luận và thông qua kế hoạch hoạt động tiếp theo của Ban kiểm soát;

d) Quyết định của Ban kiểm soát được thông qua khi có đa số thành viên dự họp tán thành. Các ý kiến khác với nội dung quyết định đã được thông qua phải được ghi chép đầy đủ, chính xác và báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

6. Tiền lương, thù lao của Kiểm soát viên

a) Kiểm soát viên được hưởng tiền lương, thù lao theo kết quả hoạt động kiểm soát, kết quả và hiệu quả hoạt động của Quỹ;

b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định mức và chi trả tiền lương, thù lao của Kiểm soát viên căn cứ vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ và quy định của pháp luật;

c) Chi phí hoạt động của Kiểm soát viên được tính vào chi phí quản lý của Quỹ theo quy định của pháp luật.

* Lưu ý: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với Bộ Tài chính được hợp nhất thành Bộ Tài chính (căn cứ mục 2.3 Phần II Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và khoản 6 Điều 1 Nghị quyết số 176/2025/QH15 ngày 18/02/2025 của Quốc hội về cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV).

Theo đó, Bộ Tài chính sẽ căn cứ quy mô của Quỹ, quyết định thành lập Ban kiểm soát có từ 01 đến 05 Kiểm soát viên, trong đó có Trưởng Ban kiểm soát. Nhiệm kỳ Kiểm soát viên không quá 05 năm và có thể được bổ nhiệm lại nhưng không quá 02 nhiệm kỳ liên tục. Trường hợp Ban kiểm soát chỉ có 01 Kiểm soát viên thì Kiểm soát viên đó đồng thời là Trưởng Ban kiểm soát và phải đáp ứng tiêu chuẩn của Trưởng Ban kiểm soát. Quy định này thể hiện tính linh hoạt và phù hợp với quy mô hoạt động của Quỹ, đồng thời giới hạn nhiệm kỳ giúp ngăn ngừa việc lạm quyền, bảo đảm tính đổi mới và khách quan trong công tác kiểm soát.

Bên cạnh đó, về tiêu chuẩn, điều kiện của Trưởng Ban kiểm soát, Kiểm soát viên:

- Phải có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thuộc một trong các chuyên ngành về kinh tế, tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán, luật, quản trị kinh doanh và có ít nhất 03 năm kinh nghiệm làm việc. Riêng trưởng Ban kiểm soát phải có ít nhất 05 năm kinh nghiệm làm việc.

- Họ không phải là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh chị em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người quản lý Quỹ, nhằm đảm bảo sự độc lập và khách quan tuyệt đối trong quá trình giám sát.

- Không được là người quản lý Quỹ; không được là Kiểm soát viên của doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp nhà nước; không phải là người lao động của Quỹ.

- Không đồng thời là cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc không phải là người quản lý, điều hành tại doanh nghiệp khác.

Những điều kiện này nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan và chuyên môn cao của Kiểm soát viên, tránh xung đột lợi ích. Đồng thời, khẳng định yêu cầu đạo đức nghề nghiệp và năng lực chuyên sâu để thực hiện nhiệm vụ kiểm soát một cách hiệu quả, công tâm.

Không những vậy, điều khoản này còn nêu rõ quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát như sau:

- Giám sát việc tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch hoạt động 05 năm, hàng năm của Quỹ;

- Giám sát và đánh giá việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của thành viên Hội đồng thành viên và Hội đồng thành viên, Giám đốc;

- Giám sát, đánh giá thực trạng tài chính, hoạt động của Quỹ, thực trạng vận hành và hiệu lực các quy chế hoạt động của Quỹ;

- Giám sát thực hiện các dự án đầu tư lớn; hợp đồng, giao dịch mua, bán và giao dịch kinh tế khác có quy mô lớn của Quỹ theo yêu cầu của Bộ Tài chính;

- Lập và gửi báo cáo đánh giá, kiến nghị về nội dung quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, điểm d khoản 3 Điều 9 Nghị định số 39/2019/NĐ-CP cho Bộ Tài chính và Hội đồng thành viên.

Nội dung này thể hiện vai trò giám sát toàn diện và liên tục của Ban kiểm soát, giúp bảo đảm các hoạt động của Quỹ được thực hiện đúng định hướng, đúng pháp luật và hiệu quả. Đây cũng là công cụ quan trọng giúp Bộ Tài chính có cơ sở đánh giá khách quan tình hình quản trị và tài chính của Quỹ.

Về trách nhiệm của Kiểm soát viên, đây là cơ chế ràng buộc trách nhiệm cá nhân rất mạnh, thể hiện nguyên tắc “quyền đi đôi với trách nhiệm”. Nó góp phần xây dựng đội ngũ Kiểm soát viên liêm chính, trung thực, có tinh thần trách nhiệm cao, đồng thời nâng cao niềm tin của xã hội vào tính minh bạch trong hoạt động của Quỹ. Cụ thể:

- Tuân thủ pháp luật, quyết định của Bộ Tài chính và đạo đức nghề nghiệp trong thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định tại Nghị định số 39/2019/NĐ-CP;

- Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích hợp pháp của các bên tại Quỹ;

- Chịu trách nhiệm cá nhân khi lợi dụng danh nghĩa Quỹ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;

- Báo cáo kịp thời cho Bộ Tài chính, đồng thời yêu cầu Kiểm soát viên chấm dứt hành vi vi phạm và khắc phục hậu quả trong trường hợp phát hiện Kiểm soát viên đó vi phạm quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm được giao;

- Báo cáo kịp thời cho Bộ Tài chính, Kiểm soát viên khác và cá nhân có liên quan, đồng thời yêu cầu cá nhân đó chấm dứt hành vi vi phạm và khắc phục hậu quả trong trường hợp sau đây: Phát hiện có thành viên Hội đồng thành viên, Giám đốc và người quản lý khác làm trái quy định về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ hoặc có nguy cơ làm trái quy định đó; phát hiện hành vi vi phạm pháp luật, trái quy định tại Nghị định số 39/2019/NĐ-CP hoặc quy chế hoạt động của Quỹ;

- Trường hợp vi phạm trách nhiệm quy định tại khoản này mà gây thiệt hại cho Quỹ thì Kiểm soát viên phải chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới bồi thường thiệt hại đó; tùy theo tính chất, mức độ vi phạm và thiệt hại còn có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; hoàn trả lại cho Quỹ mọi thu nhập và lợi ích có được do vi phạm trách nhiệm quy định này.

Về chế độ làm việc của Ban kiểm soát:

- Trưởng Ban kiểm soát xây dựng kế hoạch công tác hằng tháng, hằng quý và hằng năm của Ban kiểm soát; phân công nhiệm vụ và công việc cụ thể cho từng Kiểm soát viên;

- Kiểm soát viên chủ động và độc lập thực hiện nhiệm vụ và công việc được phân công; đề xuất, kiến nghị thực hiện nhiệm vụ, công việc kiểm soát khác ngoài kế hoạch, ngoài phạm vi được phân công khi xét thấy cần thiết;

- Ban kiểm soát họp ít nhất mỗi tháng một lần để rà soát, đánh giá, thông qua báo cáo kết quả kiểm soát trong tháng trình Bộ Tài chính; thảo luận và thông qua kế hoạch hoạt động tiếp theo của Ban kiểm soát;

- Quyết định của Ban kiểm soát được thông qua khi có đa số thành viên dự họp tán thành. Các ý kiến khác với nội dung quyết định đã được thông qua phải được ghi chép đầy đủ, chính xác và báo cáo Bộ Tài chính.

Quy định này tạo nên cơ chế làm việc khoa học, dân chủ và có tính kiểm tra chéo, giúp các Kiểm soát viên phát huy năng lực cá nhân nhưng vẫn đảm bảo tính thống nhất tập thể, từ đó nâng cao chất lượng giám sát và báo cáo trung thực, chính xác. Ngoài ra, về vấn đề tiền lương cũng như thù lao của Kiểm soát viên, được thực hiện như sau:

- Kiểm soát viên được hưởng tiền lương, thù lao theo kết quả hoạt động kiểm soát, kết quả và hiệu quả hoạt động của Quỹ;

- Bộ Tài chính sẽ quyết định mức và chi trả tiền lương, thù lao của Kiểm soát viên căn cứ vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ và quy định của pháp luật;

- Chi phí hoạt động của Kiểm soát viên được tính vào chi phí quản lý của Quỹ theo quy định của pháp luật.”

Chính sách này thể hiện sự ghi nhận, khuyến khích và công bằng trong đãi ngộ, tạo động lực để Kiểm soát viên làm việc tận tâm, khách quan và hiệu quả hơn. Đồng thời, việc gắn thu nhập với kết quả kiểm soát giúp nâng cao tinh thần trách nhiệm và năng suất lao động.

Tổng thể, điều luật trên đã thiết lập khung pháp lý chặt chẽ, toàn diện cho hoạt động của Ban kiểm soát và Kiểm soát viên trong Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các quy định này không chỉ bảo đảm tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả trong quản trị Quỹ, mà còn góp phần xây dựng cơ chế kiểm soát nội bộ hiện đại, chuyên nghiệp, hướng tới mục tiêu quản lý tốt nguồn lực nhà nước và thúc đẩy phát triển bền vững khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý