
Nội dung giám sát và đánh giá tổng thể đầu tư được quy định như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Dự án xây dựng nhà ở của công ty chúng tôi đang được theo dõi nhằm phục vụ cho việc giám sát và đánh giá tổng thể đầu tư. Tuy nhiên, tôi hiện không biết các nội dung cho các công tác nêu trên là gì. Vì vậy, tôi muốn hỏi Luật sư, nội dung giám sát và đánh giá tổng thể đầu tư được quy định như thế nào theo quy định của pháp luật hiện hành? Kính mong Luật sư giải đáp thắc mắc giúp tôi.
MỤC LỤC
1. Nội dung giám sát tổng thể đầu tư được quy định như thế nào?
2. Nội dung đánh giá tổng thể đầu tư được quy định như thế nào?
Trả lời:
1. Nội dung giám sát tổng thể đầu tư được quy định như thế nào?
Theo quy định, nội dung giám sát tổng thể đầu tư được thể hiện trên hai khía cạnh theo dõi tổng thể và kiểm tra tổng thể đầu tư, tương ứng với quy định tại Điều 82 và Điều 83 Nghị định số 29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư như sau:
“Điều 82. Nội dung theo dõi tổng thể đầu tư
1. Việc ban hành văn bản hướng dẫn các chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư theo thẩm quyền.
2. Việc lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý thực hiện các quy hoạch.
3. Việc lập, thẩm định và phê duyệt chủ trương đầu tư.
4. Việc thực hiện kế hoạch đầu tư công theo quy định tại Điều 69 của Luật Đầu tư công (hiện nay là Điều 73 Luật Đầu tư công 2024).
5. Việc lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện các dự án PPP.
6. Việc lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước ngoài vốn đầu tư công.
7. Việc quản lý dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác:
a) Việc thu hút đầu tư, thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và quản lý thực hiện dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài;
b) Việc thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư và quản lý thực hiện dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn tư nhân trong nước.
8. Việc tổ chức thực hiện công tác giám sát và đánh giá đầu tư.”
và
“Điều 83. Nội dung kiểm tra tổng thể đầu tư
1. Việc thực hiện các quy định của các văn bản hướng dẫn các chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư.
2. Tiến độ thực hiện và việc chấp hành các quy định trong lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý thực hiện các quy hoạch.
3. Tiến độ thực hiện và việc chấp hành các quy định trong lập, thẩm định và phê duyệt chủ trương đầu tư.
4. Việc thực hiện kế hoạch đầu tư công theo quy định lại Điều 69 của Luật Đầu tư công (hiện nay là Điều 73 Luật Đầu tư công 2024).
5. Tiến độ thực hiện và việc chấp hành các quy định trong lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện các dự án PPP.
6. Tiến độ thực hiện và việc chấp hành các quy định trong lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước ngoài vốn đầu tư công.
7. Tiến độ thực hiện và việc chấp hành các quy định trong quản lý dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác.
8. Việc tổ chức thực hiện công tác giám sát và đánh giá đầu tư.”
Theo đó, nội dung giám sát tổng thể đầu tư bao gồm:
- Theo dõi tổng thể đầu tư về: ban hành văn bản hướng dẫn các chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư; lập, thẩm định và các hoạt động khác liên quan đến quy hoạch, chủ trương đầu tư hoặc triển khai các dự án thuộc nhiều loại hình vốn khác nhau (đầu tư công, dự án PPP,dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước ngoài vốn đầu tư công, dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác); tổ chức thực hiện công tác giám sát và đánh giá đầu tư.
- Kiểm tra tổng thể đầu tư về: thực hiện các quy định của các văn bản hướng dẫn các chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư; tập trung đánh giá tiến độ thực hiện và việc chấp hành các quy định trong lập, thẩm định, phê duyệt và hoạt động khác liên quan đến quy hoạch, chủ trương đầu tư hoặc triển khai các dự án; tổ chức thực hiện công tác giám sát và đánh giá đầu tư. Cho thấy tính tiếp nối với công tác theo dõi tổng thể đầu tư nêu trên.
Như vậy, hai điều luật về giám sát tổng thể đầu tư đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch, thống nhất và hiệu quả của hệ thống đầu tư quốc gia. Việc tách biệt rõ giữa theo dõi và kiểm tra giúp phân định trách nhiệm, tập trung hoá công tác quản lý, đồng thời nâng cao năng lực giám sát, phát hiện sớm rủi ro và sai phạm trong quá trình đầu tư. Qua đó, Nhà nước có thể điều chỉnh chính sách, phân bổ nguồn lực hợp lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế có sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài.
2. Nội dung đánh giá tổng thể đầu tư được quy định như thế nào?
Nội dung đánh giá tổng thể đầu tư được quy định tại Điều 84 Nghị định số 29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư như sau:
“Điều 84. Nội dung đánh giá tổng thể đầu tư
1. Tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình và kết quả đầu tư của nền kinh tế theo các chỉ tiêu về quy mô, tốc độ, cơ cấu, tiến độ, hiệu quả đầu tư.
2. Đánh giá mức độ đạt được so với quy hoạch được duyệt, nhiệm vụ kế hoạch hoặc so với mức đạt được của kỳ trước; đánh giá tính khả thi của các quy hoạch, kế hoạch được duyệt.
3. Đánh giá kế hoạch đầu tư công theo quy định tại Điều 70 của Luật Đầu tư công (hiện nay là Điều 74 Luật Đầu tư công 2024).
4. Đánh giá tổng thể về tình hình quản lý đầu tư.
5. Xác định các yếu tố, nguyên nhân ảnh hưởng tới tình hình và kết quả đầu tư; đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư trong kỳ hoặc giai đoạn kế hoạch sau.”
Từ quy định trên có thể thấy, các nội dung đánh giá tổng thể đầu tư tập trung vào việc tổng hợp và phân tích toàn diện tình hình đầu tư của nền kinh tế trên nhiều khía cạnh như quy mô, tốc độ, cơ cấu, tiến độ và hiệu quả đầu tư. Bên cạnh đó, việc so sánh kết quả đạt được với quy hoạch, kế hoạch được phê duyệt hoặc so với kỳ trước giúp đánh giá tính khả thi và hiệu quả thực tế của các định hướng phát triển. Ngoài ra, điều luật cũng đề cập đến việc đánh giá kế hoạch đầu tư công, tổng thể tình hình quản lý đầu tư và xác định nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đầu tư nhằm đưa ra giải pháp điều chỉnh và cải thiện hiệu quả đầu tư trong tương lai.
Như vậy, quy định có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý cho công tác tổng kết, đánh giá toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia. Thông qua đánh giá tổng thể, Nhà nước có cơ sở nhìn nhận khách quan về hiệu quả sử dụng vốn, phát hiện điểm yếu trong công tác quản lý, cũng như nhận diện các yếu tố kinh tế – xã hội tác động đến hiệu quả đầu tư. Từ đó, kết quả đánh giá không chỉ phục vụ điều chỉnh chính sách đầu tư và quy hoạch phát triển mà còn góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và bền vững trong hoạt động đầu tư của cả khu vực công và tư.
Trân trọng./.












