Bản án hình sự phúc thẩm số 01/2022/HS-PT ngày 04/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim O do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim O

Nội dung sửa án:   

(i) Đối với tình tiết định khung hình phạt “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim O là chưa chính xác. Bởi lẽ, tại Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và tại Hội nghị tổng kết công tác ngành TAND năm 1995 giải thích: “Khái niệm côn đồ được hiểu là hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích (hay) dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết người…”. Trong vụ án này, nguyên nhân dẫn đến xảy ra xô xát giữa bị cáo và bị hại là có nguyên cớ, việc bị cáo có những câu nói và hành vi đổ bát rượu đi nhằm mục đích khuyên can bị hại và mọi người không nên uống nhiều loại rượu sẽ bị say và đau đầu không phải là hành động sai trái, vi phạm chuẩn mực đạo đức, lối sống, mà có ý tốt cho bị hại, vì thời điểm đó bị hại H cũng đã trong tình trạng say rượu, được chứng minh bởi "Biên bản xác minh" tại Trạm y tế xã T (bút lục số 138), người cung cấp thông tin nêu“Bệnh nhân Trần Thị Bích H, tình trạng bệnh nhân say rượu”. Hơn nữa, lời khai của bị hại H tại bút lục số 243 xác nhận, sau khi bị cáo O có hành vi đổ bát rượu bị hại vừa rót lần thứ nhất thì chị H và bị cáo O đã xảy ra cãi vã nhau, nhưng liền ngay sau đó chị H và những người khách trong mâm cũng có hành vi ép bị cáo phải uống rượu phạt vì cho rằng bị cáo đã sai tạo ra cho bị cáo sự ức chế.

(ii) Mặt khác, những người làm chứng gồm anh Tạ Quốc B, anh Giàng A K ngồi cùng mâm cơm với bị cáo và bị hại ở cự ly rất gần, có thể chứng kiến diễn biến quá trình xô xát giữa 2 bên rất rõ ràng nhưng những lời khai trước và lời khai sau của chính họ về các tình tiết của vụ án có sự mâu thuẫn với nhau và mâu thuẫn với lời khai của bị hại, bị cáo. Cụ thể, lời khai của anh Tạ Quốc B tại bút lục số 268 thể hiện anh B nhìn thấy chị O cầm cốc trên mặt bàn ném vào vùng mặt, trán bên phải chị H…đến bút lục 270 anh B lại khai khi chị H và bị cáo cãi vã nhau anh đang mải nói chuyện với chú bộ đội, ngay sau đó anh nghe thấy tiếng cốc vỡ thì anh nhìn về phía phát ra tiếng cốc vỡ thì thấy chị H và bị cáo đang ôm lấy nhau, H ngã ra nền và ngất đi… bút lục số 288 anh Giàng A K khai, do anh đang nói chuyện với vợ chồng anh chị Ngụy Anh T, B nên không để ý, chỉ khi chị H đi cấp cứu tại Trạm y tế xã T thì được O cho biết thương tích do chị O ném vào mặt chị H, O cầm cốc thủy tinh ném vào mặt chị H anh không để ý, chỉ thấy chị H và O lao vào nhau … người làm chứng ngồi mâm cơm bên anh như anh Lê Tuấn A lại khai là khi thấy chị H và O xảy ra cãi vã, to tiếng thì đi về nên những diễn biến về sau thế nào anh không biết (bút lục 291). Trong giai đoạn điều tra, người làm chứng Nguyễn Xuân T, Tạ Quốc B từ chối tham gia đối chất (bút lục 266, 267, 274); người làm chứng Ngụy Anh T đang đi điều trị bệnh không có mặt tại địa phương (bút lục số 283, 284), tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm những người làm chứng được triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt. Ngoài ra, Hội đồng xét xử cũng xét thấy, những người làm chứng đều là người quen, bạn bè thân thiết của chị H, được chị H mời đến nhà ăn cơm, vì vậy lời khai của họ có phần không khách quan, vô tư, nên lời khai của họ không phải là chứng cứ vững chắc trong việc giải quyết vụ án.

(iii) Trong các giai đoạn tố tụng bị cáo O đều trình bày gia đình bị hại có lắp đặt hệ thống camera nhưng không được điều tra làm rõ. Tại bút lục số 118, chị H xác nhận gia đình chị có lắp đặt 05 camera an ninh, nhưng tại hiện trường xảy ra vụ việc cố ý gây thương tích không lắp đặt camera, không ghi nhận được hình ảnh. Khi Cơ quan điều tra đề nghị chị H cung cấp đầu thu và mắt camera để phục vụ công tác điều tra, chị H cho biết đầu thu camera đã bị hỏng bán sắt vụn không thể cung cấp được, còn mắt camera chị H không cung cấp vì lý do gia đình phải sử dụng để bảo đảm an ninh, nếu thu giữ thì phải lắp hệ thống camera mới chị H mới đồng ý giao nộp. Tuy nhiên, khi tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo O trình bày thời điểm bị cáo chăm sóc bị hại trong Bệnh viện, chị H vẫn mở điện thoại cho bị cáo xem các hoạt động của con chị H đang chơi ở nhà, có xem được hình ảnh và nghe rõ âm thanh. Chị H không phản đối ý kiến của bị cáo O nhưng cho rằng sau khi chị ra viện được 02 ngày thì đầu thu camera đã bị đập vỡ không rõ nguyên nhân.

(iv) Như vậy, Cơ quan điều tra mới chứng minh được tỷ lệ 9% thương tích tại vùng trán (trên cung mày) phía bên phải của bị hại là do bị cáo Nguyễn Thị Kim O dùng chiếc cốc thủy tinh là hung khí nguy hiểm gây nên, Cơ quan điều tra chưa thu thập đầy đủ, triệt để nguồn chứng cứ để chứng minh làm rõ về diễn biến vụ án, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo theo quy định tại Điều 85 và Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự; điều đó dẫn tới không có cơ sở vững chắc khẳng định bị cáo là người cầm cốc thủy tinh ném bị hại trước hay bị hại lao vào cào cấu vào vùng mặt, tay, cổ và ngực bị cáo trước. Vì vậy, không có đủ căn cứ để kết luận hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Kim O “Có tính chất côn đồ”, là tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

(v) Về việc áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thay đổi lời khai cho rằng bị cáo không cố ý ném cốc vào vùng trán của bị hại mà chỉ có ý định hất nước nhưng không may tay bị trơn nên cốc thủy tinh mới bị văng vào trán của bị hại là không có căn cứ nên bị cáo có thể không được áp dụng tình tiết thành khẩn khai báo, song việc bị cáo có ý thức chủ động đưa bị hại đi cấp cứu tại Trạm xá, sau đó cùng gia đình chăm sóc bị hại tại Bệnh viện và thanh toán toàn bộ chi phí viện phí, chi phí sinh hoạt cho bị hại và người phục vụ bị hại với tổng số tiền 9.625.000đ (chín triệu sáu trăm hai mươi lăm nghìn đồng) là thể hiện sự ăn năn hối cải của bị cáo nên bị cáo vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự mới phù hợp.

(vi) Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã bồi thường toàn bộ số tiền 35.000.000đ (ba mươi lăm triệu đồng) còn lại theo Bản án sơ thẩm đã tuyên; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; ngoài ra bị cáo còn xuất trình giấy tờ tài liệu chứng minh bị cáo là mẹ đơn thân, là lao động chính trong gia đình phải nuôi 1 mẹ già; 02 con nhỏ trong đó cháu Đỗ Thiên B 04 tuổi bị mắc bệnh tự kỷ, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

(vii) Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của bị cáo: Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng; có 04 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo không thuộc trường hợp phạm tội "Có tính chất côn đồ"; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp được tài liệu chứng cứ mới chứng minh bị cáo là lao động chính trong gia đình nên có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đối chiếu quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo nên kháng cáo của bị cáo cần được chấp nhận.

Bài viết liên quan

Góp ý