Bản án dân sự phúc thẩm số 96/2024/DS-PT ngày 22/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án 

(i) Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật tranh chấp:

Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Hoàng Thị Thanh T sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện: Đề nghị Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà T và cụ Lương Thị G có hiệu lực. Buộc ông S2 trả lại cho vợ chồng bà T diện tích đất đã nhận chuyển nhượng của cụ G. Trường hợp, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì đề nghị phía bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến cụ G phải thanh toán giá trị tài sản theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán cho bà T. TAND huyện L1 xác định lại quan hệ pháp luật là “Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và huỷ GCNQSDĐ”. Hội đồng xét xử thấy rằng: Mặc dù quá trình giải quyết bị đơn ông Nguyễn Văn S2 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Vũ Thị P có đề nghị Toà án huỷ GCNQSDĐ cấp cho bà T và cấp cho cụ G, nhưng theo hướng dẫn tại Công văn số 64/TATC-PC ngày 03/4/2019 và Công văn số 79/TANDTC- PC ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thì khi giải quyết tranh chấp về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được cấp GCNQSDĐ thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp GCNQSDĐ tham gia tố tụng và không cần thiết phải tuyên huỷ GCNQSDĐ cho người nhận chuyển nhượng. Khi Tòa án tuyên hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất vô hiệu thì Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại GCNQSDĐ phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án. Do vậy, Toà án nhân dân huyện L1 thụ lý, giải quyết vụ án và xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” là có căn cứ theo quy định tại Điều 26; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, nhưng Toà án cấp sơ thẩm xác định cả quan hệ pháp luật là “huỷ GCNQSDĐ” là chưa phù hợp. Do đó cấp phúc thẩm xác định lại quan hệ pháp luật trong vụ án là “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

(ii) Xét nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát về việc cấp sơ thẩm vi phạm trong việc xác định người có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng:

Viện kiểm sát kháng nghị cho rằng, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (yêu cầu buộc thực hiện hợp đồng) ...”. Việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa người chuyển nhượng (cụ G) và người nhận chuyển nhượng (bà T). Nay cụ G đã chết, di sản thừa kế của cụ G chưa được chia nên quyền và nghĩa vụ của cụ G phải do các đồng thừa kế cùng thực hiện. Trường hợp công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phải buộc các đồng thừa kế của cụ G thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, nghĩa là phải giao tài sản cho bên nhận chuyển nhượng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã đưa các con của cụ G vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng không buộc những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ G phải thực hiện nghĩa vụ trả lại đất cho bà T mà chỉ buộc một mình ông S2 (những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông S2) thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà cụ G để lại là chưa đầy đủ.

Nội dung kháng nghị nêu trên là chưa đúng, bởi lẽ trong vụ án này mặc dù các đương sự tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cụ thể là tranh chấp về tính hiệu lực của Hợp đồng (có hiệu lực hay vô hiệu). Do Toà án cấp sơ thẩm công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ G và bà T có hiệu lực, nên Toà cấp sơ thẩm buộc bị đơn (nay do người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của bị đơn) là người đang chiếm giữ tài sản mà nguyên đơn được công nhận phải có trách nhiệm hoàn trả như bản án sơ thẩm đã quyết định, những người con khác của cụ G không chiếm giữ nên không có trách nhiệm hoàn trả là là phù hợp với nội dung quyết định của cấp sơ thẩm, vì vậy kháng nghị trên của Viện kiểm sát không được chấp nhận.

Tuy nhiên, đối với nội dung này cấp sơ thẩm cũng có thiếu sót là tuyên chưa rõ ràng tại phần quyết định về nghĩa vụ của bị đơn do người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn phải thực hiện là trả lại diện tích đất cho ai.

(iii) Xét nội dung kháng nghị về việc Toà án cấp sơ thẩm vi phạm trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ dẫn đến chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa có căn cứ, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16/10/2007 được lập giữa cụ Lương Thị G và bà Hoàng Thị Thanh T, thể hiện có chữ ký , ghi rõ họ và tên Lương Thị G.

Tuy nhiên, tại lời khai của ông Nguyễn Văn S2 (bút lục 241), lời khai của bà Nguyễn Thị N2 (bút lục 261), lời khai của anh Nguyễn Hoài N (bút lục 269), lời khai của ông Nguyễn Sơn G1 - Nguyên là cán bộ địa chính thời gian từ năm 1990 đến năm 2017 (BL 239), lời khai của ông Vũ Hiền L5 - Nguyên là Chủ tịch UBND xã Q1 thời kỳ 2000-2019 là người đã ký xác nhận vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ G và bà T (BL 254) đều khẳng định cụ G không biết chữ và không thể tự ký, viết tên được nên chữ ký, chữ viết tên cụ G trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải do cụ G ký, viết ra. Ông Lương khai rằng do cụ G không viết được nên có nhờ một người con gái viết hộ. Những người liên quan, người làm chứng khác đều không xác định được ai là người ký, viết tên Nguyên vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Lời khai của anh Nam, bà T, ông G1 đều khẳng định mọi thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ G và bà T là do bà N2 đứng ra làm. Quá trình làm việc với bà N2 ban đầu bà N2 khai cụ G không biết chữ, bà không biết cụ nhờ ai ký, viết tên vào Hợp đồng mà bà chỉ là người đi nộp hộ thủ tục cho cụ G nhưng sau đó bà N2 lại thay đổi lời khai và khẳng định chữ ký, chữ viết trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là do cụ G ký và viết ra.

Ngoài ra, tại lời khai của bà T trình bày: Mọi thủ tục mua bán thửa đất 556.1, tờ bản đồ số 25 diện tích 180 m2 tại thôn C3, xã Q1 đều do bố chồng bà đứng ra mua bán với cụ Nguyên và con gái cụ Nguyên là bà N2, bà chỉ là người đứng tên trong GCNQSDĐ. Bà chưa đến Uỷ ban nhân dân xã Q1 làm thủ tục gì về việc mua bán thửa đất này. Việc mua bán do bố chồng bà đứng ra làm, ngày giao tiền cho bà N2 và cụ G thì có chồng bà và bố chồng bà đi giao tiền, nguồn tiền mua là của 02 vợ chồng bà. Con gái cụ G là bà N2 là người đứng ra mua bán. Làm thủ tục giấy tờ và nhận tiền bán đất từ gia đình bà, gia đình bà mua thửa đất này với giá 45.000.000 đồng và cho thêm cụ G 5.000.000 đồng để làm GCNQSDĐ. Cụ V và ông N giao tiền tại nhà bà H3 (con gái cụ G) khi đó có bà N2 và chồng bà H3 nhận tiền trực tiếp. Ngày ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ bà không có mặt ở đó (Bút lục 254). Còn lời khai của ông N chồng bà T lại khai: Năm 2007, bố ông là cụ V, cụ V là em họ của cụ G biết thông tin cụ G muốn bán 01 thửa đất để lấy tiền chữa bệnh, dưỡng già nên cụ Vcó hỏi mua đất của cụ G. Mọi thủ tục mua bán thửa đất số 556.1, tờ bản đồ số 25, diện tích 180m2 tại thôn C3, xã Q1 đều do cụ Vđứng ra mua bán với bà Nguyễn Thị N2 (con gái của cụ G). Ông chỉ là người đưa cụ Vđi giao dịch, còn bà T là người đứng tên trong GCNQSDĐ. Ông không đưa cụ Vđến UBND xã Q1 làm thủ tục chuyển nhượng nên không biết khi làm hợp đồng chuyển nhượng có mặt những ai. Cụ G không biết chữ và thời điểm đó cũng không thể viết và ký tên được, nhưng ông cũng không biết chữ ký và chữ viết của cụ G trong Hợp đồng chuyển nhượng là do ai viết và ký ra. Cụ V mua thửa đất trên với giá 45.000.000 đồng và cho thêm cụ G 5.000.000 đồng để làm GCNQSDĐ, nguồn tiền mua đất là của hai vợ chồng ông. Khi giao tiền hai bên có viết biên bản giao nhận, các loại giấy tờ mua bán đều do cụ V giữ, nhưng năm 2012 cụ Vchết, gia đình có tìm kiếm nhưng không tìm thấy biên bản giao nhận tiền giữa cụ G và cụ Viên. Cụ Vgiao tiền cho cụ G tại quán nước của cụ G trên chính thửa đất bán cho gia đình ông, cụ V đưa tiền trực tiếp cho cụ G, lúc đó có mặt bà N2 và chồng bà Nguyễn Thị H3 (Bút lục 269).

Trong khi ông L5 - Nguyên Chủ tịch UBND xã lại trình bày: Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ G và bà T ông nhớ ngày hôm đó có bà T, cụ G và bà N2 đến UBND xã Q1 để làm hợp đồng chuyển nhượng, nhưng khi đó cụ G không viết và ký được nên có nhờ con gái ký hộ, viết hộ tên. Ông không nhớ tên người con gái đã ký và viết tên giúp cụ vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là ai, chỉ biết khi đó có bà N2 và 01 người con gái nữa. Vì vậy chữ ký và chữ viết trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải do cụ G ký và viết; còn ông G1 - địa chính xã trình bày: Ông chỉ làm thủ tục tách đất cho cụ G theo đề nghị của cụ G tách làm 02 phần (01 phần cho vợ chồng ông S2, và Phú; 01 phần của cụ G), trong khi tại hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho bà T thể hiện là hiện trạng tách đất chuyển nhượng hộ bà Hoàng Thị T.

Như vậy, toàn bộ các lời khai của các đương sự còn mâu thuẫn về việc lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ G với bà T. Trong đó, có cả mâu thuẫn của chính vợ chồng nguyên đơn về địa điểm và người tham gia lập Hợp đồng chuyển nhượng. Những nội dung trên còn nhiều mâu thuẫn chưa được cấp sơ thẩm xác minh làm rõ. Hơn nữa, các đương sự cũng khẳng định: Năm 2005 cụ G sống cùng vợ chồng bà Hiền tại thôn K1, xã L7. Khi đó, toàn bộ tài sản của cụ N3 và cụ G để lại do vợ chồng ông S2 quản lý, GCNQSDĐ cấp đứng tên hộ cụ N3 vẫn do ông S2 quản lý, lý do vì sao cụ G lại được cấp GCNQSDĐ mới đối với thửa đất số 556; UBND huyện L1 cho rằng không tìm được hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho cụ G năm 2005, tuy nhiên ai là người kê khai cho cụ để cụ được cấp GCNQSDĐ nếu các đương sự cho rằng cụ không biết đọc, biết chữ? Ngoài việc lưu trữ hồ sơ quản lý đất đai tại UBND huyện L1, UBND xã Q1 thì Phòng nội vụ, Trung tâm lưu trữ tỉnh Vĩnh Phúc có lưu giữ hồ sơ nêu trên không? Toà án nhân dân huyện chưa làm rõ nội dung trên. Đồng thời, tại hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ của bà T còn nhiều mâu thuẫn như: Chủ tịch UBND xã xác nhận vào hợp đồng ngày 16/10/2007, nhưng trước đó 14 ngày (ngày 02/10/2007) bà Hoàng Thị Thanh T đã có đơn xin cấp giấy GCNQSDĐ và trước đó 08 ngày (ngày 08/10/2007) UBND xã Q1 đã có tờ trình số 34/TTr-UBND về việc cấp GCNQSDĐ trước khi các bên lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Toà án cấp sơ thẩm không làm rõ nội dung trên với bà T và UBND xã Q1. Do đó, chưa đủ cơ sở để đánh giá Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập ngày 16/10/2007 thể hiện bên chuyển nhượng là cụ G với bên nhận chuyển nhượng là bà T có hiệu lực hay không có hiệu lực.

Đồng thời, căn cứ theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản của Toà án cấp sơ thẩm xác định trên phần đất tranh chấp có các tài sản và cây cối gồm: 01 cây nhãn Φ 10 trị giá 600.000 đồng, 01 cây nhãn Φ 35 trị giá 2.000.000 đồng, 01 cây nhãn Φ 15 trị giá 1.000.000 đồng, 01 cây nhãn Φ 20 trị giá 1.000.000 đồng, 01 cây vải Φ 15 trị giá 1.000.000 đồng, 19 cây chuối trị giá 550.000 đồng, 01 cây xoài Φ 40 trị giá 1.500.000 đồng, 01 cây xoài Φ 20 trị giá 650.000 đồng, 22,5m2 mái lợp tôn, 4,1m3 tường rào xây gạch, 12m2 quán lợp ngói. Đối với số tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất trên, Toà án cấp sơ thẩm xác định trước là của cụ N3, cụ G, nay là của gia đình ông S2. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm cũng không làm rõ khi các bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Hợp đồng chuyển nhượng thì các bên có thoả thuận chuyển nhượng đối với tài sản nêu trên không? Tài sản trên hiện nay là của ai đề từ đó còn xác định quyền và nghĩa vụ của đương sự khi giải quyết tranh chấp.

Với những thiếu sót nêu trên của cấp sơ thẩm, mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể khắc phục, bổ sung được nên cần chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện L1, hủy bản án sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện L1, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

Bài viết liên quan

Góp ý