Nội dung hủy án:
(i) Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định “Xét thấy, nguyên đơn bà Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện”. Do đó, đã căn cứ điểm a, khoản 2 Điều 227 và điểm c, khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Đ về ly hôn và nuôi con. Tại phiên tòa, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn, chia tài sản và nuôi con nên Tòa án cấp sơ thẩm thay đổi địa vị tố tụng của ông C thành nguyên đơn, bà Đ thành bị đơn theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 217 Bộ luật tố tụng Dân sự. Từ đó đã tuyên xử “Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông C đối với nguyên đơn là Nguyễn Thị Đ về việc tranh chấp tài sản chung” là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Cụ thể là:
Ông C đã thay đổi địa vị tố tụng là nguyên đơn, có yêu cầu Tòa án giải quyết 3 mối quan hệ: nhân thân, tài sản và con cái. Nên vì vậy, khi giải quyết thì Tòa án cấp sơ thẩm phải giải quyết luôn yêu cầu của ông C là “đồng ý ly hôn với nguyên đơn, xem xét yêu cầu được nuôi con là cháu Y”, thế nhưng chỉ tuyên xử phần tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, mà không giải quyết quan hệ hôn nhân và con cái là giải quyết không triệt để vụ án, không đúng với nội dung khởi kiện (Tòa án cấp sơ thẩm cho là yêu cầu phản tố) của nguyên đơn là ông C.
(ii) Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm chia tài sản chung là phần đất có diện tích 931,5m2 tại Khu tái định cư Mỹ Phước III, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, thuộc ô 13, lô L52, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 205342. Theo đơn khởi kiện, lời khai của bà Đ là tài sản riêng của mình, do cha mẹ ruột bỏ tiền ra mua, còn ông C có lời khai đất này là do cha ruột của mình cho vợ chồng tiền để nhận chuyển nhượng đất từ ông Trần Quang V, giao cho bà Đ đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi giải quyết yêu cầu của ông C, Tòa án cấp sơ thẩm đã không đưa những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cha, mẹ của bà Đ, cha của ông C và người chuyển nhượng đất là ông V vào tham gia tố tụng, lấy lời khai để làm rõ nguồn gốc mà quyết định chấp nhận yêu cầu của ông C là vi phạm tố tụng, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà Đ.
(iii) Bên cạnh đó, khi giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm về yêu cầu nuôi con, Tòa án cấp sơ thẩm cần kiểm tra đánh giá chứng cứ, sử dụng Tờ tường trình của cháu Y (viết bằng chữ Hán) và bản dịch viết tay không có chứng thực, không có hợp pháp hóa lãnh sự là Văn phòng văn hóa tại Đài Bắc (Taiwan), mà cần thiết phải có sự có mặt của cháu Y, các tài liệu phải được hợp pháp hóa lãnh sự, các dữ liệu điện tử khác về mong muốn của cháu để từ đó quyết định việc quyền nuôi dưỡng, chăm sóc cháu.
Những vi phạm nói trên của tòa án cấp sơ thẩm là nghiêm trọng, không thể khắc phục được. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cho Tòa án cấp sơ thẩm nhập chung với hồ sơ xin ly hôn của ông C đã được thụ lý để xét xử lại theo thủ tục chung. Đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.