Nội dung hủy án:
(i) Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 27/7/2017, Tòa án cấp sơ thẩm thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và đưa vụ án ra xét xử (lần 1), ấn định thời gian mở phiên hòa giải và phiên tòa lần lượt vào hồi 08 giờ 00 phút và 10 giờ 00 phút cùng ngày 11/8/2017. Căn cứ khoản 2 Điều 147 và khoản 1 Điều 148 Bộ luật dân sự thì xác định thời hạn mở phiên tòa là 14 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời hạn này không phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự về thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu. Việc thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và quyết định đưa vụ án ra xét xử cùng một ngày cũng không phù hợp với quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 203 và khoản 1 Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự.
(ii) Mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã giao các văn bản tố tụng nêu trên cho ông Mùa A S2 - Trưởng Công an xã P để tống đạt cho các đương sự theo quy định tại Điều 172 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng hồ sơ vụ án không thể hiện anh D có nhận được văn bản tố tụng của Tòa án hay không. Sau khi hoãn phiên tòa lần 1 (ngày 11/8/2017), ngày 05/9/2017, Tòa án cấp sơ thẩm đưa vụ án ra xét xử lần 2, ấn định thời gian mở phiên tòa vào hồi 08 giờ ngày 20/9/2017. Hồ sơ vụ án thể hiện Tòa án cấp sơ thẩm đã niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử tại trụ sở Tòa án và trụ sở Ủy ban nhân dân xã P từ ngày 05/9/2017 đến ngày 19/9/2017 nên xác định thời gian niêm yết công khai là 14 ngày, vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự về thời hạn niêm yết công khai. Biên bản niêm yết (bút lục số 69) thể hiện đại diện chính quyền địa phương tham gia niêm yết là ông Mùa A D1 - Trưởng Công an xã P nhưng phần ký xác nhận của chính quyền địa phương thể hiện Trưởng Công an xã P là ông Mùa A S2 nên ý kiến của anh D về việc biên bản niêm yết ghi sai tên người tham gia niêm yết là có cơ sở. Mặt khác, anh D là Chỉ huy phó Ban Chỉ huy quân sự xã P, hiện đang cư trú ổn định tại bản N, xã P nên không thuộc trường hợp phải niêm yết công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự. Hồ sơ vụ án không có biên bản hòa giải, vụ án không thuộc trường hợp không được hòa giải theo quy định tại Điều 206 Bộ luật tố tụng dân sự; không có tài liệu, chứng cứ thể hiện vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự; không có biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, tại cấp phúc thẩm không khắc phục, bổ sung được.
(iii) Ngoài ra, bản án sơ thẩm số 16/2014/HNGĐ-ST ngày 29/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện T và bản án phúc thẩm số 03/2014/HNGĐ-PT ngày 01/12/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La về việc xin ly hôn xác định chị S và anh D có 3 con chung là: Cháu Và A P sinh ngày 01/01/2000, Và A X sinh ngày 25/5/2002, Và Trường G sinh ngày 03/4/2004. Theo đơn khởi kiện ngày 30/4/2017 của chị S và các tài liệu, chứng cứ kèm theo gồm: Bản sao Sổ hộ khẩu gia đình chị Phá Thị S cấp ngày 04/4/2016, bản sao Giấy khai sinh của Và A P cấp lại ngày 24/4/2017, bản sao Giấy khai sinh của Và A S1 và Và A G đăng ký quá hạn ngày 29/8/2016 xác định chị S và anh D có 3 con chung là: Cháu Và A P sinh ngày 02/01/2001, cháu Và A S1 sinh ngày 15/8/2002 và cháu Và A G sinh ngày 08/7/2004. Xét tên và ngày, tháng, năm sinh của các cháu là căn cứ quan trọng để giải quyết tranh chấp về cấp dưỡng và xác định thời gian cấp dưỡng nuôi con, cấp sơ thẩm không xác minh, làm rõ việc thay đổi tên và ngày, tháng, năm sinh của các cháu so với bản án giải quyết việc ly hôn năm 2014, không làm rõ cháu Và A X và Và A S1, Và Trường G và Và A G có phải là cùng một người hay không là thiếu sót, cần được khắc phục, bổ sung.