Nội dung hủy án:
(i) Tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ thể hiện, quá trình tố tụng Tòa án nhân dân thị xã B không đưa Văn phòng C, Văn phòng C1 và Ủy ban nhân dân thị xã B vào tham gia vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót nghiêm trọng, vì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; yêu cầu phản tố của bị đơn có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trên.
(ii) Tại cấp phúc thẩm, ngày 12/01/2024 bà Phạm Thị N1 là vợ của ông Hoàng Ngọc S nộp đơn tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương yêu cầu đưa bà N1 vào tham gia tố tụng trong vụ án này, với lý do số tiền 2.300.000.000 đồng mà ông S thanh toán tiền chuyển nhượng đất cho ông H là tiền của vợ chồng bà N1 và ông S. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông H với ông S và buộc ông H trả lại cho cá nhân ông S số tiền gốc và bồi thường tổng cộng 3.994.550.000 đồng là không đảm bảo quyền lợi cho bà N1.
(iii) Qua tài liệu, chứng cứ là giấy kết hôn do Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước cấp ngày 28/01/2008 thể hiện bà Phạm Thị N1 với ông Hoàng Ngọc S là vợ chồng được pháp luật công nhận. Số tiền ông S thanh toán chuyển nhượng cho ông H phát sinh trong thời kỳ hôn nhân giữa bà N1 với ông S. Do đó, cần thiết phải đưa bà N1 vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới giải quyết đảm bảo quyền lợi cho các bên. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà N1 vào tham gia tố tụng là thiếu sót nghiêm trọng.
(iv) Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy, tại Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 09-2020 ngày 26/8/2020 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã B vẽ thì phần đất 2.000m2 (đo thực tế 2.009,7m2) do ông H chuyển nhượng cho ông S có cạnh hướng Tây tiếp giáp đường đất 04m. Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập, làm rõ đường đi tại hướng Tây phần đất ông H chuyển nhượng cho ông S có tình trạng pháp lý như thế nào (đường chung công cộng hay đường riêng tự mở), ý kiến của cơ quan quản lý Nhà nước về đường đi này như thế nào mới giải quyết toàn diện vụ án.
(v) Ông P trình bày thế chấp giấy chứng nhận thửa đất số 66 cho ông N, sau đó ông H (anh của ông P) đến chuộc lại giấy chứng nhận thửa đất số 66 nên ông N sang tên lại cho ông H chứ không phải bà H1 nhờ ông H đứng tên giấy chứng nhận.
Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, Tòa án đã triệu tập đối chất trực tiếp giữa ông P, ông N, bà H1, bà T2, ông H nhưng bà H1, bà T2, ông N không đến đối chất. Do đó, chưa làm sáng tỏ về những mâu thuẫn trong vụ án.
(vi) Cấp sơ thẩm chưa xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ thửa đất số 209, tờ bản đồ số 6, phường T, thị xã B của bà Võ Thị H1 có lối đi vào hay không, hay đi qua quyền sử dụng đất thuộc thửa 66 của ông Triệu Văn H có có cơ sở đánh giá vụ án.
Ngoài ra cần thu thập làm rõ diện tích 4.267m2 thửa đất số 66, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại khu phố D, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương cấp quyền sử dụng cho cá nhân bà H1 hay tài sản chung với người khác
(vii) Những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trên và việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ cấp phúc thẩm không thể khắc phục. Do đó, có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn. Hủy bản án dân sự sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án theo quy định của pháp luật.