
Vợ hoặc chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì có được quyền yêu cầu ly hôn không?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi có một người bạn đang trong tình trạng nghiện ma túy nặng và đã bị Tòa án tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Vợ của anh ấy hiện đang chịu nhiều áp lực và muốn chấm dứt hôn nhân. Vậy, nếu vợ hoặc chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì có được quyền yêu cầu ly hôn không?
MỤC LỤC
1. Quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự
2. Vợ hoặc chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì có được quyền yêu cầu ly hôn không?
Trả lời:
1. Quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự
Căn cứ Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 24. Hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.”
Theo đó, người nghiện ma túy hoặc các chất kích thích khác dẫn đến việc phá tán tài sản của gia đình có thể bị Tòa án tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức có liên quan. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ chỉ định người đại diện theo pháp luật và quy định rõ phạm vi đại diện.
Các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực phải có sự đồng ý của người đại diện, trừ các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày hoặc trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi không còn lý do để hạn chế năng lực hành vi dân sự, Tòa án sẽ ra quyết định hủy bỏ việc tuyên bố đó theo yêu cầu hợp lệ.
2. Vợ hoặc chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì có được quyền yêu cầu ly hôn không?
Căn cứ Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Đồng thời, theo khoản 3 Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
“Điều 24. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng
…
3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.
Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.”
Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 88 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 88. Chỉ định người đại diện trong tố tụng dân sự
1. Khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 87 của Bộ luật này thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng.”
Theo đó, khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 87. Những trường hợp không được làm người đại diện
1. Những người sau đây không được làm người đại diện theo pháp luật:
a) Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện;
b) Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ việc.
Như vậy, theo các quy định trên, vợ, chồng hoặc cả hai đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Trong trường hợp một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, thông thường vợ hoặc chồng sẽ là người đại diện. Tuy nhiên, nếu người vợ hoặc chồng đã bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì Tòa án sẽ chỉ định một người khác làm đại diện theo pháp luật để tham gia giải quyết ly hôn. Do đó, ngay cả khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bên còn lại vẫn có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
Trân trọng./.