MỤC LỤC
1. Bản án dân sự phúc thẩm số 28/2023/DS-PT ngày 08/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình về việc tranh chấp yêu cầu huỷ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và yêu cầu chia thừa kế
Nội dung hủy án:
(i). Trong đơn khởi kiện và các tài liệu gửi Tòa án ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, bà H cung cấp cho Tòa án nơi cư trú của ông K lần lượt là Cụm 2, Tổ dân phố 9, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình và xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Tuy nhiên qua xác minh của Tòa án cấp sơ thẩm, thì tại địa chỉ Cụm 2, Tổ dân phố 9, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, ông K không cư trú ở đây; còn tại địa chỉ xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, thì ông K chỉ có đăng ký thường trú, nhưng thực tế không ở đây từ trước khi bà H khởi kiện vụ án. Tại Công văn số 574/CAH ngày 03/3/2022 về phúc đáp Công văn số 241/2022/CVTA ngày 21/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới (bút lục số 171), Công an huyện Q, tỉnh Quảng Bình xác định ông Phạm Ngọc K đang tạm trú tại địa chỉ 84/41/14, khu phố 2, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Tuy vậy các văn bản mà Tòa án cấp sơ thẩm gửi cho ông K theo địa chỉ này đều bị trả lại, vì không có người nhận. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông K đã được tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ, nhưng vắng mặt tại phiên tòa, thể hiện việc cố tình giấu địa chỉ, nên đã xét xử vụ án với sự vắng mặt của bị đơn theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án quy định:
“2. Trường hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt được Thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không còn cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà Nguyên đơn cung cấp thì Tòa án giải quyết như sau:
a) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
b) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức theo hướng dẫn tại điểm d khoản 1 Điều 5 Nghị quyết này thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ trụ sở”. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi trụ sở mà không công bố công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 79 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
c) Trường hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.”
Khoản 3 Điều 6 Nghị quyết trên là quy định đối với các trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang ở nước ngoài hoặc là công dân nước ngoài.
Trong vụ án này giữa bà H và ông K không có bất kỳ giao dịch, hợp đồng nào, do đó với quy định trên, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông Phạm Ngọc K cố tình giấu địa chỉ để xét xử vắng mặt ông K là không đúng. Trong trường hợp này cần đình chỉ vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
(ii). Trong trường hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không thể liên lạc được với Bị đơn, theo các quy định đã trích dẫn trên thì Tòa án phải yêu cầu Nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của Bị đơn để Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng cho Bị đơn. Nếu nguyên đơn không cung cấp được, có yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh và trong trường hợp Tòa án cũng không xác minh được thì Tòa án cấp sơ thẩm phải đình chỉ giải quyết vụ án. Nhưng do Tòa án cấp sơ thẩm đã không thực hiện đúng quy định pháp luật này, nên Tòa án cấp phúc thẩm cũng không thể triệu tập hợp lệ Bị đơn được (Vì Tòa án cấp sơ thẩm đã không yêu cầu Nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của Bị đơn). Do đó việc Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay không phải là căn cứ để hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét xử vụ án với sự vắng mặt của Bị đơn.
(iii). Trong vụ án này, Nguyên đơn làm đơn khởi kiện, trong đó có nội dung yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Văn M và ông Phạm Ngọc K vô hiệu, yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất số 198 và tài sản trên đất. Các yêu cầu trên cũng đồng nghĩa với việc yêu cầu Tòa án không công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 183, tờ bản đồ số 19 tại Tổ dân phố 9, phường N, thành phố Đồng Hới giữa ông Phạm Ngọc K và bà Trần Thị Vân A. Đây là nội dung dẫu bà Trần Thị Vân A có yêu cầu hay không yêu cầu thì Tòa án vẫn phải giải quyết. Do đó ý kiến của bà Trần Thị Vân A yêu cầu Tòa án công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên không phải là yêu cầu độc lập, mà bà A là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tham gia tố tụng với bên Bị đơn. Vì vậy việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Trần Thị Vân A là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là không đúng.
(iv). Điều 311 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 217, điểm b khoản 1 Điều 299 của Bộ luật này”. Do đó cần hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2023/DS-ST, ngày 13/2/2023 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới và đình chỉ giải quyết vụ án.
2. Bản án dân sự phúc thẩm số 240/2022/DS-PT ngày 05/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về việc tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chia thừa kế
Nội dung hủy án:
(i) Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo của bà Võ Thị Ph, Võ Thị Ngọc Ng, Võ Thúy V và Võ Thị Thanh Gi:
…
Xét, tại biên bản lấy lời khai ngày 08/3/2022 ông Nguyễn Văn Tân (Tăng) trình bày vào năm 1977, ông có mua của bà Trần Thị R phần diện tích đất khoản 10.000m2, tại ấp Hóc Thơm, xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Như vậy, việc chuyển nhượng đất giửa bà R và ông Tân được thực hiện trước thời điểm bà Rất và ông Huệ ly thân nhau (năm 1985), tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm chưa cho đối chất, điều tra, xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ thời gian chuyển nhượng như thế nào, phần đất diện tích 10.000m2 trên là tài sản riêng của bà Rất hay vẫn còn là tài sản chung giữa bà Rất và ông Huệ.
Xét, tại bản tự khai của ông H trình bày ngoài hai thửa đất mà bà R chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Tân và bà Nguyễn Thị Bé thì bà R còn quản lý một cái nhà thiếc nằm trên miếng đất mặt tiền rộng 29m giáp đường đất, tại khu vực 5, thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Sau khi ly thân, bà R quản lý sử dụng diện tích đất này và vào năm 1990 bà Rất đã bán cho ông Võ Văn M với giá một cây vàng 24k. Nội dung này Tòa án cấp sơ thẩm chưa cũng lấy lời khai, điều tra xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ tài sản này có có sự việc này hay không, tài sản này có phải là tài sản chung giửa ông H và bà R hay là tài sản riêng của bà R.
Xét, tại bản tự khai của ông H trình bày khi cho đất cho các con, năm 2012 ông và bà R đã ký tên vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho Võ Văn Ph, nhưng đến năm 2013 khi làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho Võ Văn M và Võ Văn L, bà R đã ủy quyền cho ông ký tặng cho hai con trai còn lại. Giấy ủy quyền này được UBND thị trấn Hiệp Hòa chứng nhận và ông đã nộp vào hồ sơ xin giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án cấp sơ thẩm chưa điều tra, xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ có giấy ủy quyền nay hay không.
(ii). Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cung cấp cho Hội đồng xét xử hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 18/7/2014 được công chứng tại Văn phòng công chứng Đức Huệ công chứng cùng ngày thể hiện vợ chồng ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị X tặng cho bà Võ Thúy V thửa đất số 136 (mpt) diện tích 3671m2, tờ bản đồ số 15, tọa lạc khu vực 3, thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Theo như lời trình bày của nguyên đơn đây là tài sản mà ông L, ông Ph, ông Mg cùng ông H thống nhất chia cho các con gái là V, Ph, Gi, Nguyệt nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập tài liệu chứng cứ làm rõ lý do tại sao có hợp đồng tặng cho nêu trên và sự thỏa thuận giửa các bên về thửa đất trên là gì.
(iii). Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn bà Võ Ngọc Ng có yêu cầu giám định chữ ký tên “Rất” và chữ viết mang tên “Trần Thị Rất” trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Võ Văn H, bà Trần Thị R với ông Võ Văn Ph. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại sử dụng tài liệu so sánh là chữ ký và chữ viết của bà R trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị R với Võ Thị Ngọc Ng mà hợp đồng này hiện ông H đang có tranh chấp yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Do đó, việc sử dụng tài liệu so sánh này là không khách quan.
(iv). Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của ông Võ Văn H, ông Nguyễn Văn Tân và bà Nguyễn Thị Bé trình bày bà Trần Thị R có chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Tâm 10.000m2 và chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Bé 5.000m2 đất cùng tọa lạc tại ấp Hóc Thơm, xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An để cho rằng khi ly thân thì ông H và bà R đã thỏa thuận phân chia tài sản chung xong để không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa đủ căn cứ. Việc Tòa án cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ không đầy đủ để làm rõ những nội dung như đã phân tích trên là vi phạm thủ tục tố tụng, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được tại phiên tòa phúc thẩm.
(v). Ngoài ra, tại phiên tòa nguyên đơn bà Võ Thị Ngọc Ng trình bày trên thửa đất số 39, tờ bản đồ 10-3-4, tọa lạc tại khu vực 5, thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An vợ chồng bà có xây cất một căn nhà cùng hai người con nữa đang sinh sống là Châu Thuận Ph, sinh năm 1996 và Châu Xuân Qu, sinh ngày 20/01/2004. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành lấy lời khai và đưa Châu Xuân Qu vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót, vi phạm thủ tục tố tụng.
Với các lý do trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần hủy bản án sơ thẩm giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm để xác minh làm rõ các vấn đề trên để vụ án được giải quyết được toàn diện, khách quan và đúng pháp luật. Quan điểm phát biểu của Vị đại diện Viện kiểm sát phù hợp nên chấp nhận.
3. Bản án dân sự phúc thẩm số 11/2020/DS-PT ngày 03/11/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i) Về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, công chứng số 012408 quyền số 11/TP-CC - SCC/HĐGD ngày 24/11/2016 tại Văn phòng công chứng Đ: Tại Kết luận giám định số 132/PC09 ngày 28/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận chữ ký, chữ viết, dấu vân tay trong hợp đồng tặng cho không phải của ông C. Bà X không đồng ý với nội dung kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk nói trên nhưng đã từ đã bỏ yêu cầu giám định lại. Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng tặng cho quyền sửdụng đất giữa ông C và bà X không thể hiện ý chí của của bên tặng cho tài sản, không tuân thủ quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục công chứng qui định tại Điều 48 Luật Công chứng năm 2014 và tuyên vô hiệu là phù hợp quy định tại các Điều 122, 123 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tuy nhiên, thửa đất số 61 đứng tên bà Nguyễn Thị X đã được thế chấp cho Ngân hàng B, việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên vô hiệu hợp đồng tặng cho vàtuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà X nhưng không giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của Ngân hàng. Tại phiên họp hòa giải ngày 11/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, Ngân hàng trình bày: “Việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị X sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng TMCP B. Do đó, kính đề nghị Tòa án xem xét phán quyết khách quan, thận trọng nhằm bảo vệ quyền lợi các bên”.
Như vậy, Ngân hàng đã yêu cầu xem xét giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu và hậu quả của việc tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại phiên họp hòa giải ngày 11/3/2019. Sau khi vụ án được chuyển lên Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk thụ lý ngày 02/01/2020, Ngân hàng có Đơn yêu cầu độc lập đề ngày 19/02/2020, nộp cho Tòa án vào ngày 20/02/2020; cùng ngày 20/02/2020, Tòa án cấp sơ thẩm mở phiên họp hòa giải. Bản án sơ thẩm nhận định Ngân hàng có yêu cầu độc lập sau phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải và tách ra giải quyết ở vụ án khác là không đúng. Việc không xem xét giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu liên quan đến hợp đồng thế chấp giữa Ngân hàng và bà X trong vụ án này là vi phạm thủ tục tố tụng (Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự), ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của Ngân hàng, các vấn đề của vụ án không được giải quyết triệt để.
4. Bản án dân sự phúc thẩm số 169/2019/DS-PT ngày 19/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i) Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Thanh Ph và bà Nguyễn Thị Đ được Tòa án nhân dân thành phố Thủ D niêm yết công khai tại địa chỉ số 44/22, khu phố 2, phường Đ, thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên theo Biên bản xác minh ngày 08 tháng 5 năm 2019 do TAND tỉnh Bình Dương xác minh tại Công an phường Đ thì: “Khoảng năm 2008 trở về trước tại địa chỉ số 44/22, tổ 22, khu phố 2, phường Đ, thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương có hộ gia đình ông Nguyễn Thanh Ph, bà Nguyễn Thị Đ sinh sống tại đây trong căn nhà tạm (vách lá), nhưng từ năm 2008, ông Ph, bà Đ đã phá bỏ căn nhà tạm này, chỉ còn lại đất trống. Sau đó, ông Ph, bà Đ bán đất cho người khác. Hiện nay, tại địa chỉ này là bãi đất trống từ năm 2008 đến nay, không ai sinh sống.
Hiện nay tại phường Đ không còn căn nhà nào địa chỉ số 44/22, tổ 22, khu phố 2, phường Đ, thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương do tổ 22 đã đổi thành tổ 9 từ năm 2008 đến nay”. Như vậy, tại địa chỉ mà Tòa án cấp sơ thẩm xác định là nơi bị đơn cư trú chỉ là bãi đất trống, không có nhà ở nhưng các biên bản niêm yết của Tòa án cấp sơ thẩm (bút lục 498, 537, 542, 553) lại xác định lý do không thực hiện được việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng là do ông Ph, bà Đ không có mặt ở nhà, không có người thân nhận thay hoặc không có người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự nhận thông báo thay là không phù hợp với thực tế. Theo Biên bản xác minh ngày 09 tháng 5 năm 2019 do Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xác minh tại Công an thành phố Thủ D có nội dung: “Căn cứ hồ sơ tàng thư hộ khẩu đang lưu trữ tại Công an thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương có thông tin như sau: Hộ ông Nguyễn Thanh Ph, sinh ngày 23/01/1975, chứng minh nhân dân số 280572115 chuyển hộ khẩu từ thị trấn Gia H, huyện Tr, tỉnh Tây Ninh đến đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 44/22, tổ 22, ấp 2 (khu phố 2), phường Đ, thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương từ ngày 29/6/2007 gồm: 1, Nguyễn Thanh Ph, sinh năm 1975; 2, Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1977; 3, Nguyễn Nam Ph, sinh năm 1997; 4, Nguyễn Nam Hải Triều, sinh năm 2001. Ngày 31/7/2009, ông Ph làm thủ tục chuyển hộ khẩu cả hộ đến địa chỉ nơi chuyển đến: Số 56/12, đường tỉnh lộ 6, khu phố Gia H, thị trấn Tr, huyện Tr, tỉnh Tây Ninh đã được Công an thành phố Thủ D giải quyết”. Ông Hai (cha ông Ph) cũng đã xác định ông Ph, bà Đ đã chuyển đi đến tỉnh Tây Ninh (không rõ địa chỉ cụ thể), làm ăn và sinh sống từ sau khi bà Nguyễn Thị B chết (năm 2009) tại biên bản lấy lời khai ngày 12 tháng 9 năm 2016 (bút lục 237).
Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh rõ ông Ph, bà Đ có chuyển đi nơi khác sinh sống như ông Hai khai báo hay không mà lại xác định địa chỉ tại phường Đ là địa chỉ cư trú cuối cùng của bị đơn và niêm yết công khai tại địa chỉ này là không đúng quy định tại khoản 2, Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
(ii). Xét kháng cáo của nguyên đơn cho rằng bà B không biết chữ nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa thuyết phục, xét xử chưa đúng quy định pháp luật. Xét thấy, theo nội dung các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 376/2017/TLST-DS ngày 11/10/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương về việc yêu cầu hủy di chúc giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Th với bị đơn là ông Lê Minh thể hiện: Bà Lê Thị Hoa (em ruột bà B), bà Bùi Thị Ngọc Yến, bà Trương Thị Ch, bà Nguyễn Thị Tr, ông Huỳnh Văn D (hàng xóm bà B), ông Nguyễn Văn Đ, ông Lê Văn H (cán bộ xã Định Hòa thời điểm đó), ông Nguyễn Văn B (cháu ruột bà B) đều xác định bà B không biết chữ, không biết đọc, không biết viết. Tại biên bản lấy lời khai ngày 14 tháng 6 năm 2011 (bút lục 172, 173) ông Lê Minh (cháu bà B, người được bà B để lại di chúc) cũng xác định bà B mù chữ, không biết chữ, không biết đọc, không biết viết; về sau thì ông Minh lại xác định là bà B biết chữ. Ông Hai lúc thì xác định bà B không biết viết có thể đánh vần để đọc từ từ, lúc thì khai bà B biết chữ.
Như vậy, lời khai của các đương sự và người làm chứng mâu thuẫn nhau, ngay chính lời khai của ông Hai, ông Minh cũng không thống nhất về việc này. Tòa án cấp sơ thẩm không điều tra thu thập các chứng cứ như hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 108 QSDĐ ngày 27 tháng 5 năm 1998 cấp cho bà Nguyễn Thị B, việc đăng ký kê khai đất tại UBND xã của bà B; hồ sơ xin nhận con nuôi tại Ty Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai (bút lục 20); hồ sơ cấp giấy khai sinh cho ông Nguyễn Văn Th (bút lục 24) để thu thập các chữ ký của bà B; không tiến hành làm rõ chữ ký, chữ viết của bà B trong biên bản kiểm tra địa chính về việc điều chỉnh diện tích theo hiện trạng sử dụng đất ngày 17/7/2007 và sơ đồ trích đo khu đất ngày 23 tháng 7 năm 2007 có phải của bà B hay không và có phải cùng một người viết ra hay không. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có chứng thực của UBND xã (nay là phường) Định Hòa, số 492/07 quyển số 02TP/CC-SCT/HĐGD đề ngày 01/8/2007, bà B có ký tên, điểm chỉ vào hợp đồng, cho đến thời điểm xét xử sơ thẩm không có chứng cứ nào chứng minh dấu vân tay, điểm chỉ và chữ ký tên B tại hợp đồng tặng cho trên không phải của bà B để không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không phù hợp, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện, bởi vấn đề không thống nhất cần làm rõ là việc bà B có biết chữ hay không.
Theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 75/2000/NĐ- CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực quy định “Trong trường hợp pháp luật quy định việc công chứng, chứng thực phải có người làm chứng hoặc trong trường hợp pháp luật không quy định phải có người làm chứng, nhưng người yêu cầu công chứng, chứng thực không đọc, không nghe, không ký hoặc không điểm chỉ được, thì phải có người làm chứng.” Như vậy, trong trường hợp nếu có căn cứ xác định bà B không biết chữ thì trình tự, thủ tục của hợp đồng tặng cho nêu trên không phù hợp với quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực tại thời điểm xác lập.
(iii). Mặt khác, theo lời khai của các đương sự thì bà B không làm chứng minh nhân dân, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh tại cơ quan có thẩm quyền cấp chứng minh nhân dân để làm rõ bà B có đăng ký chứng minh nhân dân hay không và ai đăng ký sổ hộ khẩu cho bà B để xem xét trình tự thủ tục ký kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có thực hiện theo quy định hay không. Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có chứng thực của UBND xã (nay là phường) Định Hòa, số 492/07 quyển số 02TP/CC-SCT/HĐGD đề ngày 01/8/2007 được lập thành 03 bản bên A (bà B, ông Th) giữ 01 bản chính, bên B giữ 01 bản chính, lưu tại Ủy ban nhân dân 01 bản chính nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập hợp đồng này tại Ủy ban nhân dân xã (nay là phường) Định Hòa để xem xét về thủ tục, trình tự công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản về bất động sản theo quy định tại Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTPBTNMT ngày 13 tháng 6 năm 2006 hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất.
(iv). Ngoài vụ án này, Tòa án nhân dân thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương đã thụ lý vụ án ông Nguyễn Văn Th kiện ông Lê Minh và vụ ông Nguyễn Văn Th kiện ông Nguyễn Văn H. Vụ ông Lê Minh đã bị hủy theo Quyết định giám đốc thẩm số 487/2013/DS-GĐT ngày 14/11/2013 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao do chưa làm rõ được bà B có biết chữ hay không, trình tự cấp đất có đúng quy định hay không. Tòa án nhân dân thành phố Thủ D, tỉnh Bình Dương đang tạm đình chỉ giải quyết vụ án, chờ kết quả xét xử vụ án này để tiếp tục giải quyết vụ án. Tuy nhiên, do tranh chấp giữa ông Th và ông Minh có thể có một phần diện tích đất có liên quan đến đất tranh chấp giữa ông Th và ông Ph nên cần phải xem xét có cần nhập 2 vụ án này để giải quyết triệt để các vấn đề tranh chấp trong cùng một vụ án hay không.
Từ những phân tích nêu trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc triệu tập đương sự, việc thu thập chứng cứ chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện nên cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, cần hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định tại Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
5. Bản án dân sự phúc thẩm số 297/2023/DS-PT ngày 23/6/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i). Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Lê Thị D khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 12/9/2017 giữa ông Phan Văn C (C), bà Lê Thị D và ông Phan Văn H3 thực hiện tại Văn phòng công chứng L2 là vô hiệu. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện T2 (nay là thị xã N), tỉnh Thanh Hóa cấp cho ông Phan Văn H3 ngày 27/9/2017, số giấy CK122547 thửa 155, tờ bản đồ số 12, diện tích 556m2. Quá trình giải quyết vụ án, tại biên bản ghi lời khai ngày 12/01/2021 (BL 62) bà D đề nghị giao một phần đất cho ông H3. Tòa án cấp sơ thẩm đã không lấy lời khai của nguyên đơn để làm rõ đây có phải là yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn không? Trong trường hợp là yêu cầu khởi kiện bổ sung thì cần yêu cầu nguyên đơn làm các thủ tục bổ sung yêu cầu khởi kiện, thông báo cho Viện kiểm sát, các đương sự khác biết về yêu cầu này để họ được trình bày ý kiến. Bản án sơ thẩm quyết định giao 271m2 đất cho ông H3 theo ý chí của bà D là vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và phần quyền của bà D trong khối tài sản chung của vợ chồng, ảnh hưởng đến quyền lợi của những người ở hàng thừa kế thứ nhất của ông Phan Văn C.
(ii). Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập tài liệu, chứng cứ tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai để xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Phan Văn H3 sau khi nhận tặng cho có thực hiện giao dịch dân sự chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố không? Tại phiên tòa phúc thẩm ông H3 khai hiện nay Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông đã cầm cố cho anh Lại Văn L4 (người cùng thôn) để vay tiền. Nội dung này quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm bà D và ông H3 đã trình bày nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa anh L4 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự để thu thập chứng cứ làm rõ có việc anh H3 cầm cố Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không.
(iii). Về nội dung: Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn xác định có việc gia đình bàn bạc thống nhất để lại một phần đất làm nhà thờ còn lại cho Phan Văn H3 diện tích hơn 100m2. Tại biên bản kiểm tra hiện trạng nhà đất tặng cho của UBND xã H1 ngày 01/8/2017 có chữ ký của ông Phan Văn C; quá trình lập hợp đồng tặng cho ông C, bà D đã trực tiếp đến làm việc với UBND xã H1 để làm thủ tục. Bà D cho rằng bà và ông C không đọc và ký, điểm chỉ vào hợp đồng là do tưởng nhầm là giấy vay tiền ngân hàng. Ông bà chưa bao giờ làm việc với công chứng viên Nguyễn Hữu V, chưa bao giờ đến trụ sở Văn phòng công chứng L2.
Bản án sơ thẩm căn cứ vào văn bản Giấy nhượn đất (xác định là giấy mượn đất) đề ngày 09/09/2017 để hủy hợp đồng tặng cho. Văn bản này có nội dung: Tên tôi là Phan Văn H3, vợ là Lại Thị T1 con ông bà Phan Văn C, Lê Thị D có cho con một số đất trong trích lục. Thống nhất để lại cho ông bà một số đất phía đông giáp bà M, phía tây giáp đường đi kéo dài hết đất. Vậy tôi làm giấy này cam kết. Người làm giấy: H3 và chữ viết Phan Văn B, Phan Văn A, Phan Văn D1. Tiếp đến là dòng chữ: Tôi Phan Văn C 79 tuổi và vợ tôi là Lê Thị D 82 tuổi. Có cho con tôi là Phan Văn H3 số đất có trích lục đứng tên tôi và bà D. Vậy tôi viết giấy này xác nhận số đất để lại một phần trong trích lục để sau này con tôi làm nhà thờ. Mong chính quyền xác nhận nội dung trên là đúng sự thật ông Phan Văn C, bà Lê Thị D. Góc bên trên phía trái văn bản ghi ngày 09/9/2017 tức ngày 19 tháng 7 âm lịch.
Theo ông H3 văn bản này được lập năm 2017, ông không nhớ chính xác ngày tháng nhưng lập sau khi việc tặng cho đất đã hoàn thành. Đây là giấy nhượng đất, do ít học nên ông viết là nhượn đất. Tại thời điểm viết giấy có mặt ông, ông C, bà D và ông Lê Văn H7 – cán bộ địa chính xã. Ông là người viết và ký tên vào phần đầu văn bản. Còn phần chữ phía dưới, chữ ký xác nhận của ông B, ông A, ông D1 và ngày tháng không biết chữ ai, viết thời điểm nào. Nội dung: Bố mẹ và ông có thống nhất ông sẽ nhượng lại cho ông bà một phần thửa đất đã được tặng cho để sau này ông bà có nhu cầu thì về ở. Nay ông xác định, tài sản của bố mẹ ông đã chia đều cho các con, mỗi người đều có phần. Nay bố mẹ đã mất, đất bố mẹ đã tặng cho ông nên không đồng ý thực hiện theo giấy nhượng đất.
Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ những dòng chữ trên giấy ghi ngày 09/9/2017 do ai viết, viết thời gian nào? chưa lấy lời khai của những người ký tên trên văn bản là các ông Phan Văn B, Phan Văn D1, Phan Văn A để làm rõ thời gian viết giấy, lý do? Nội dung các bên thống nhất? Chưa lấy lời khai của ông Phan Văn D1 và những người con khác của bà D, ông H3 để làm rõ có việc ông C, bà D cho ông H3 đất không? Diện tích đất tuyên bố cho là bao nhiêu? Quan điểm như thế nào về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn? Yêu cầu bổ sung của nguyên đơn.
Chưa lấy lời khai của những người làm chứng là những người trực tiếp ký tên trong biên bản xác định hiện trạng đất tặng cho cũng như trực tiếp hoàn thiện các thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất như ông Lê V H7 (cán bộ địa chính xã H1), ông Trịnh Cao C1 (Trưởng thôn L), ông Đặng Duy T3 (Chủ tịch UBND xã H1) để làm rõ ý chí của ông C, bà D về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất?
(iv). Xét thấy: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất lập ngày 12/9/2017 tại Văn phòng công chứng L2 giữa: bên tặng cho là ông Phan Văn C và bà Lê Thị D; bên nhận tặng cho là ông Phan Văn H3 có đầy đủ chữ ký, điểm chỉ của ông C, bà D. Ông Phan Văn H3 và Văn phòng công chứng L2 đều khẳng định ông C, bà D đến Văn phòng công chứng để làm mọi thủ tục liên quan đến hợp đồng tặng cho đất ông H3 theo đúng quy định. Ông C, bà D đều là người biết đọc, biết viết. Tại thời điểm ký hợp đồng tặng cho hai ông bà có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện mà chỉ căn cứ vào lời trình bày của bà D cho rằng vợ chồng bà không đến Văn phòng công chứng L2 làm việc và chưa bao giờ làm việc với công chứng viên để từ đó đưa ra nhận định: Hợp đồng tặng cho QSDĐ số công chứng 2689, Quyển số 05 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/9/2017 do Văn phòng công chứng L2 lập là vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp lợi của gia đình ông C, bà D. Mục đích và nội dung của hợp đồng tặng cho tài sản là không hợp pháp, giao dịch dân sự do lừa dối theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự.
Hợp đồng này đã vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự. Việc UBND huyện T2 (nay là thị xã N) căn cứ vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông Phan Văn C (C)và bà Lê Thị D để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phan Văn H3 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D0914480, số vào sổ cấp GCN: 01577QSDĐ do Ủy ban nhân dân huyện T2 (nay là thị xã N) cấp ngày 01 tháng 08 năm 1994 là không đúng pháp luật. Từ đó, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị D tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 12/9/2017 giữa ông bà và Phan Văn H3 thực hiện tại Văn phòng công chứng L2 là vô hiệu; Hủy Giấy chứng nhận QSDĐ do UBND huyện T2 (nay là thị xã N) cấp cho Phan Văn H3 ngày 27/9/2017 diện tích 556,7m², địa chỉ phường H1, thị xã N, tỉnh Thanh Hoá là chưa có căn cứ vững chắc.
Từ những lập luận phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã không thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ. Tại cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Do đó có căn cứ chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi liên quan là Văn phòng công chứng L2, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
6. Bản án dân sự phúc thẩm số 384/2025/DS-PT ngày 16/9/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i). Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 26/11/2015 giữa bà Nguyễn Thị T với ông Trần Văn Đ đối với thửa 56, diện tích 306m2, tờ bản đồ số 10, tọa lạc khóm Mỹ C, thị trần C, huyện C (này là xã C, tỉnh Vĩnh Long) được UBND thị T chứng thực. Hợp đồng tặng cho gồm nhiều trang nhưng bà T chỉ điểm chỉ vào trang cuối, không điểm chỉ vào từng trang của hợp đồng, người chứng thực không ký xác nhận vào từng trang của hợp đồng; hợp đồng tặng cho không thể hiện người chứng thực có đọc lại cho bà T nghe về nội dung của hợp đồng hay không. Do đó, chưa có cơ sở vững chắc thể hiện ý chí của bà T có tặng cho thửa đất 56 cho ông Đ hay không. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay người đại diện của nguyên đơn không thừa nhận dấu vân tay trong hợp đồng tặng cho là của bà T. Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà T với ông Đ đối với thửa đất 56 là chưa đủ cơ sở vững chắc.
(ii). Trong quá trình giải quyết vụ án các bên đương sự đều khai nhận, thửa đất 56, 57 Ủy ban nhân huyện C thu hồi một phần để mở rộng lộ nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Hội đồng đề bù vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ việc thu hồi, đền bù thửa đất 56, 57 là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cũng như nội dung của vụ án.
Từ những nhận định và phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của vị Kiểm sát viên, hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 13 – Vĩnh Long), giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân Khu vực 13 - Vĩnh Long giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
7. Bản án dân sự phúc thẩm số 577/2024/DS-PT ngày 18/11/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chia thừa kế
Nội dung hủy án:
Trong vụ án này cả nguyên đơn, bị đơn đều yêu cầu xem xét thời hiệu khởi kiện liên quan đến di sản thừa kế của cụ P.
Theo Biên bản thẩm định tài sản công trình trên đất thể hiện: nhà ở số 1 - nhà cấp 4, diện tích 62,54 m2; được xây năm 1974, năm 1983 tôn tạo lại; giá trị: 143.777.000 đồng. Nhà ở số 2 - loại nhà cấp 4, diện tích 31,5 m2, được xây dựng năm 1974 đến năm 1983 tôn tạo lại và các công trình tường rào; trụ cổng; cổng sắt.
Theo Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản, Công văn số 01/GĐ- TANDTC ngày 05/01/2018 của Tòa án nhân dân tối cao thì thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ P là 30 năm được tính từ ngày 10/9/1990, nếu không có tài sản trên đất. Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 Nghị quyết 58/1998/NQUBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991; điểm 1 Mục IV Thông tư liên tịch 01 ngày 25/01/1999 của TANDTC, VKSNDTC hướng dẫn Nghị quyết 58 thì thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện là 02 năm 06 tháng (từ 01/7/1996 đến 01/01/1999). Trong trường hợp cụ thể này, trên thửa đất tranh chấp có tài sản nên thời hiệu khởi kiện đến ngày 10-3-2023 (32 năm 06 tháng). Ngày 22-9-2022, bà H khởi kiện chia thừa kế đối với phần di sản của cụ P là bảo đảm thời hiệu theo quy định.
Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng thời hiệu khởi kiện đã hết không chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của bà H là không có căn cứ, ảnh hưởng quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Các nội dung nêu trên đã ảnh hưởng đến việc xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện vụ án và không thể bổ sung tại phiên tòa Phúc thẩm, nên có căn cứ hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.
8. Bản án dân sự phúc thẩm số 233/2019/DS-PT ngày 14/6/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i). Xét việc toà án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Tuy nhiên, toà án cấp sơ thẩm nhận định huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các nguyên đơn với bà Tư, ông N theo yêu cầu của bị đơn là không đúng. Bởi lẽ, bà Tư, ông N chuyển nhượng cho 3 nguyên đơn là toàn bộ diện tích đất của nguyên đơn, còn nguyên đơn chỉ tranh chấp với bị đơn một phần trong toàn bộ diện tích đất của mình. Do đó, nếu có thì bị đơn chỉ có quyền yêu cầu huỷ một phần diện đất chuyển nhượng có liên quan đến phần đất mà các bên đang tranh chấp chứ không có quyền yêu cầu huỷ toàn bộ diện tích đất mà các bên đã chuyển nhượng. Hay nói cách khác, bị đơn không có quyền yêu cầu hủy đối với toàn bộ hợp đồng chuyển nhượng của các đương sự. Thế nhưng, toà án cấp sơ thẩm vẫn thụ lý và nhận định chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn huỷ toàn bộ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn với bà Tư, ông N là không đúng quy định pháp luật trong khi các nguyên đơn và bà Tư, ông N không có yêu cầu huỷ các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa họ.
(ii). Mặt khác, Toà án cấp sơ thẩm nhận định huỷ hai hợp đồng tặng cho giữa nguyên đơn bà Tr với bà Tư, ông Tr với bà Tư, nhưng tại phần Quyết định không tuyên huỷ các hợp đồng tặng cho trên mà lại buộc các nguyên đơn phải giao trả lại phần đất cho bà Tư là một sai sót.
(iii). Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn một số sai sót về tố tụng, cụ thể:
Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận cho ông Ngh tham gia tố tụng với tư cách đại diện theo uỷ quyền của các anh em ông trong suốt quá trình tố tụng. Nhưng trong hồ sơ thể hiện các anh em ông Ngh chỉ ủy quyền cho ông Ngh trước phiên toà sơ thẩm có 2 ngày.
Biên bản nghị án không theo mẫu: không có sự biểu quyết của các thành viên hội đồng xét xử.
Tại phần quyết định của bản án sơ thẩm áp dụng Điều... và Điều.... Bộ luật Dân sự 2015 là chưa rõ áp dụng điều luật nào.
Các sai sót trên của Toà án cấp sơ thẩm mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung khắc phục tại phiên toà phúc thẩm được, nên hội đồng xét xử, xét thấy cần thiết huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ về cho toà án cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung.
9. Bản án dân sự phúc thẩm số 133/2019/DS-PT ngày 09/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về việc tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Nội dung sửa án:
(i). Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 75 của Chính phủ hướng dẫn về công chứng chứng thực năm 2005 như sau: Chứng thực là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này. Khoản 1 Điều 11 của Nghị định 75 cũng quy định: Việc ký, điểm chỉ của người yêu cầu công chứng, chứng thực phải được thực hiện trước mặt người thực hiện công chứng, chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đối chiếu với các quy định trên, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ Th, cụ A cho ông T, bà L không tuân thủ quy định của Chính phủ về trình tự, thủ tục công chứng, chứng thực.
Mặt khác, khi cụ Th và cụ A còn sống, cụ Th đã có đơn khiếu nại ngày 19/12/2012 gửi Ủy ban nhân dân xã An Vĩnh Ng cho rằng cụ bị ông T giả mạo chữ ký trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (BL 17, 18). Tại biên bản hòa giải ngày 17/01/2013, cụ Th kiên quyết đòi lại đất, ông T không phản đối việc cụ Th cho rằng ông giả mạo chữ ký và đồng ý trả đất (BL 14, 15). Tình tiết này chứng minh lời trình bày của cụ Th là có căn cứ, đồng thời phù hợp trình bày của ông V, ông T và ông Ph là không trực tiếp chứng kiến việc hai cụ ký tên và lăn tay vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Cụ Thu và cụ A không phải là người ký tên và lăn tay, trường hợp đúng là dấu tích của hai cụ thì hai cụ cũng không được giải thích trước khi ký tên hoặc lăn tay.
Từ đó cho thấy khi yêu cầu công chứng, chứng thực Ủy ban nhân dân xã An Vĩnh Ng đã không làm hết trách nhiệm trong việc công chứng, chứng thực hợp đồng, không yêu cầu người yêu cầu công chứng, chứng thực phải bảo đảm sự trung thực của mình trong việc yêu cầu chứng thực. Không thông qua nội dung cho bên tặng cho biết trước khi ký vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 7 Nghị định chính phủ về công chứng và Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015.
Cho nên phía bà L và Luật sư bảo vệ khẳng định đảm bảo về trình tự, thủ tục của hợp đồng và yêu cầu được giữ nguyên là không thể chấp nhận. Cần chấp nhận kháng cáo của phía nguyên đơn, yêu cầu vô hiệu việc chứng thực, vô hiệu hai hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ Th, cụ A và ông T, bà L. Án sơ thẩm không thu thập chứng cứ để làm rõ lại bác một phần yêu cầu của nguyên đơn là chưa xem xét hết tình tiết của vụ án.
(ii). Đối với kháng cáo về án phí. Bà L sinh năm 1955 thuộc trường hợp người cao tuổi. Bà Lệ có đơn xin nên cần áp dụng điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí cho bà L. Án sơ thẩm không xem xét là thiếu sót nên chấp nhận kháng cáo của bà L và đề nghị này của Luật sư.
10. Bản án dân sự phúc thẩm số 148/2025/DS-PT ngày 19/6/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về việc tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Nội dung sửa án:
Về nội dung: Mặc dù việc tặng cho đất giữa ông C và ông L đảm bảo đúng đối tượng, chủ thể. Tuy nhiên, diện tích đất ông C được cấp tại thửa 1500 là 381m2, loại đất CLN, ông C lập giấy cho đất diện tích khoảng 296,78m2 ( một phần thửa 1500), nội dung tờ tặng cho đất cũng đã nêu rõ diện tích tặng cho không đủ hạn mức tách thửa. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận có liên hệ Ủy ban nhân dân xã làm thủ tục tách thửa nhưng không tách được. Tại thời điểm xét xử, diện tích tặng cho trên vẫn không đủ hạn mức tách thửa theo quy định tại Quyết định 33/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh H. Căn cứ Điều 220 Luật đất đai 2024 quy định “Trường hợp phân chia quyền sử dụng đất theo bản án, quyết định của Tòa án mà việc phân chia không đảm bảo các điều kiện, diện tích, kích thước tách thửa theo quy định thì không thực hiện tách thửa”.
Do đó, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đã vi phạm điều cấm của pháp luật theo quy định điều 117 và 123 của Bộ luật dân sự nên hợp đồng vô hiệu. Cấp sơ thẩm công nhận phân đất tranh chấp cho ông L và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền đăng ký biến động là không đúng quy định của pháp luật. Do đó cần chấp nhận theo đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tham gia tại phiên tòa, chấp nhận kháng cáo của bị đơn để sửa bản án sơ thẩm.
