
Tiểu tam là gì? Làm tiểu tam có vi phạm pháp luật không?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi và chồng đã kết hôn được 5 năm. Gần đây, tôi phát hiện chồng tôi có quan hệ tình cảm và sống chung như vợ chồng với một người phụ nữ khác tên A. Tôi thu thập được nhiều bằng chứng như tin nhắn, hình ảnh, video chứng minh mối quan hệ bất chính này và muốn khởi kiện chị A ra toà. Vậy, hành vi của chị A có được xem là “Tiểu tam” không? Nếu có, việc làm “Tiểu tam” như vậy có vi phạm pháp luật hay không?
MỤC LỤC
2. Làm tiểu tam có vi phạm pháp luật không?
Trả lời:
1. Tiểu tam là gì?
Hiện nay, pháp luật không quy định cụ thể về định nghĩa “Tiểu tam”. Nhưng căn cứ vào thực tế chúng ta có thể định nghĩa: “Tiểu tam” là một thuật ngữ trong tiếng Việt, dùng để chỉ người thứ ba xen vào một mối quan hệ tình cảm, đặc biệt là trong hôn nhân hoặc mối quan hệ yêu đương đã có sự cam kết. Nói cách khác, “Tiểu tam” là người chen ngang, phá vỡ hạnh phúc của cặp đôi, thường mang nghĩa tiêu cực.
Như vậy, dựa vào định nghĩa trên thì hành vi của chị A được xem là “Tiểu tam”.
2. Làm tiểu tam có vi phạm pháp luật không?
Ngoại tình là một trong những biểu hiện rõ nét nhất của sự không chung thủy trong quan hệ tình cảm, đặc biệt là trong hôn nhân – một mối quan hệ mang tính cam kết pháp lý và đạo đức xã hội. Hành vi này không chỉ gây ra tổn thương về mặt tình cảm mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định của gia đình, đôi khi kéo theo nhiều hệ lụy xã hội khác như ly hôn, mất niềm tin, rạn nứt giữa các thành viên trong gia đình.
Trên thực tế, ngoại tình không chỉ giới hạn trong hành vi quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Nó còn bao gồm cả những mối quan hệ tình cảm thân mật, gắn bó như vợ chồng với một người khác không phải là bạn đời chính thức. Điều này có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, từ gặp gỡ, trò chuyện riêng tư, dành cho nhau sự quan tâm đặc biệt, cho đến việc sống chung như vợ chồng mà không có sự công nhận hợp pháp. Trong một số trường hợp, ngay cả khi một người còn độc thân nhưng lại có quan hệ tình dục hoặc tình cảm sâu đậm với một người đã có gia đình, thì hành vi đó cũng có thể bị coi là ngoại tình, vì nó phá vỡ sự gắn bó và cam kết hôn nhân của người kia.
Về mặt pháp lý, không phải mọi hành vi ngoại tình đều cấu thành tội phạm, cụ thể:
- Nếu ngoại tình xuất hiện trong mối quan hệ yêu đương mà chưa tiến đến hôn nhân, không chịu sự điều chỉnh của pháp luật thì chủ thể không vi phạm pháp luật;
- Hành vi ngoại tình xuất hiện trong quan hệ hôn nhân đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ nhằm đảm bảo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Chi tiết tại điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cấm hành vi người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.
“Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
…
2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.”
Đồng thời, căn cứ khoản 1 Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau:
“Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.”
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, chỉ những hành vi ngoại tình có tính chất nghiêm trọng, gây ảnh hưởng lớn đến quan hệ hôn nhân và đáp ứng đầy đủ các yếu tố cấu thành "tội vi phạm chế độ một vợ một chồng” mới bị xử lý hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015. Điều này có nghĩa là không phải bất kỳ trường hợp ngoại tình nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong các vụ việc không đến mức xử lý hình sự, hành vi ngoại tình vẫn có thể được xem là căn cứ hợp pháp để Tòa án xem xét giải quyết các yêu cầu ly hôn. Ngoài ra, yếu tố lỗi trong việc vi phạm nghĩa vụ hôn nhân cũng có thể ảnh hưởng đến việc phân chia tài sản chung hoặc quyền nuôi con, theo hướng bất lợi cho người có hành vi ngoại tình trong các tranh chấp dân sự liên quan đến hôn nhân và gia đình.
Theo đó, hành vi của chị A có thể bị coi là vi phạm pháp luật và có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự, tùy theo mức độ và hậu quả của hành vi.
Trân trọng./.