Đại diện giữa vợ và chồng là gì? Căn cứ xác lập và phạm vi đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình được quy định như thế nào?

Đại diện giữa vợ và chồng là gì? Căn cứ xác lập và phạm vi đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình được quy định như thế nào?

Đại diện giữa vợ và chồng là gì? Căn cứ xác lập và phạm vi đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình được quy định như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Tôi có một số công việc cá nhân cần giải quyết ở xa trong thời gian tới (không có ở nhà), nên tôi muốn ủy quyền cho vợ tôi thay mặt mình giải quyết các vấn đề liên quan đến việc quản lý tài sản chung và ký các hợp đồng cần thiết. Vậy trong trường hợp này, tôi có được uỷ quyền để vợ tôi đại diện cho tôi giải quyết các vấn đề được nêu trên không?

MỤC LỤC

1. Đại diện giữa vợ và chồng là gì?

2. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình

3. Phạm vi đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình

 

Trả lời:

1. Đại diện giữa vợ và chồng là gì?

Căn cứ khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đại điện như sau:

Điều 134. Đại diện

1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

Hiện nay, pháp luật chưa quy định cụ thể về khái niệm "Đại diện giữa vợ và chồng". Tuy nhiên, căn cứ vào quy định trên, có thể hiểu "Đại diện giữa vợ và chồng" là quyền và nghĩa vụ mà một bên vợ hoặc chồng thực hiện thay mặt cho bên kia trong phạm vi quan hệ hôn nhân và gia đình để xác lập, thực hiện các giao dịch theo quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp, vợ và chồng có thể đại diện cho nhau trong việc quản lý tài sản chung, tham gia giao dịch dân sự hoặc giải quyết các vấn đề liên quan đến con cái và gia đình nếu có sự ủy quyền hoặc trong các trường hợp pháp luật quy định. Việc đại diện này thể hiện sự tin tưởng, hỗ trợ lẫn nhau, đồng thời góp phần bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ chung trong cuộc sống hôn nhân.

2. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình

Căn cứ Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

“Điều 24. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng

1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.

Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.”

Theo đó, việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Dân sự và các luật liên quan. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau để xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch theo quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp, một bên mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bên còn lại có thể đại diện nếu đáp ứng đủ các điều kiện pháp lý. Trường hợp ly hôn mà một bên mất năng lực hành vi dân sự, Tòa án sẽ chỉ định người khác đại diện để bảo đảm khách quan. Quy định này thể hiện sự bảo vệ quyền lợi và trách nhiệm giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân.

3. Phạm vi đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình

Theo khoản 1 Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự cũng được thực hiện theo Bộ luật Dân sự. Cụ thể, phạm vi đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình được xác định tại Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

Điều 141. Phạm vi đại diện

1. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây:

a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;

b) Điều lệ của pháp nhân;

c) Nội dung ủy quyền;

d) Quy định khác của pháp luật.

2. Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.

Như vậy, trong trường hợp của bạn, bạn hoàn toàn có quyền ủy quyền cho vợ bạn thay mặt bạn giải quyết các vấn đề liên quan đến việc quản lý tài sản chung và ký kết các hợp đồng cần thiết trong thời gian bạn vắng mặt nếu có sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, để việc đại diện có giá trị pháp lý và được bên thứ ba công nhận, việc ủy quyền cần phải được lập thành văn bản.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý