Việc xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân được pháp luật quy định như thế nào?

Việc xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân được pháp luật quy định như thế nào?

Việc xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân được pháp luật quy định như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Chồng tôi đang phải chấp hành hình phạt tù 30 tháng vì tội làm giả con dấu. Trong lần đến thăm anh ấy tại trai giam, tôi có nghe nói anh ấy được xếp loại tốt nhưng không hiểu rõ như vậy nghĩa là gì. Nhờ luật sư giải đáp giúp tôi.

MỤC LỤC

1. Định kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù được quy định như thế nào?

2. Điều kiện, tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù được quy định ra sao?

Trả lời:

1. Định kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù được quy định như thế nào?

Theo khoản 1 Điều 35 Luật Thi hành án hình sự, việc định kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân được quy định như sau:

Điều 35. Xếp loại chấp hành án phạt tù

1. Trong thời gian chấp hành án phạt tù, phạm nhân được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù theo tuần, tháng, quý, 06 tháng, 01 năm. Việc nhận xét, đánh giá phải bảo đảm khách quan, công bằng, công khai, dân chủ và bảo đảm tính liên tục.”

Để làm rõ quy định nêu trên, Nghị định số 118/2024/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi hành án hình sự đã hướng dẫn cụ thể tại Điều 18 như sau:

Điều 18. Định kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù

1. Phạm nhân đang chấp hành án phạt tù được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù theo tuần, tháng, quý, 06 tháng và 01 năm. Các cơ sở giam giữ phạm nhân căn cứ kết quả nhận xét đánh giá để xếp loại chấp hành án phạt tù định kỳ theo tháng, quý, 06 tháng và 01 năm (sau đây viết gọn là xếp loại), cụ thể như sau:

a) Phạm nhân được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù hàng tuần. Thời gian nhận xét, đánh giá tính từ ngày thứ Bảy tuần trước đến ngày thứ Sáu tuần sau;

b) Phạm nhân đã chấp hành án phạt tù từ 21 ngày trở lên trong một tháng thì được xếp loại tháng. Thời gian xếp loại tháng tính từ ngày mùng một đến ngày cuối cùng của tháng đó;

c) Phạm nhân đã được xếp loại từ 02 tháng trở lên trong 01 quý thì được xếp loại quý. Xếp loại quý I tính từ ngày 01 tháng 12 của năm trước đến ngày cuối cùng của tháng 02 năm sau; quý II tính từ ngày 01 tháng 3 đến ngày 31 tháng 5; quý III tính từ ngày 01 tháng 6 đến ngày 31 tháng 8; quý IV tính từ ngày 01 tháng 9 đến ngày 30 tháng 11;

d) Phạm nhân đã được xếp loại từ 04 tháng trở lên trong 06 tháng thì được xếp loại 06 tháng. Xếp loại 06 tháng đầu năm tính từ ngày 01 tháng 12 của năm trước đến ngày 31 tháng 5 năm sau; xếp loại 06 tháng cuối năm tính từ ngày 01 tháng 6 đến ngày 30 tháng 11 của năm đó;

đ) Phạm nhân đã được xếp loại từ 10 tháng trở lên trong 01 năm thì được xếp loại 01 năm. Xếp loại 01 năm tính từ ngày 01 tháng 12 của năm trước đến ngày 30 tháng 11 của năm sau;

e) Cán bộ quản giáo tổ chức họp đội (tổ) phạm nhân để nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù tuần vào thứ Sáu hằng tuần; họp nhận xét, đánh giá và xếp loại định kỳ tháng, quý, 06 tháng, 01 năm vào ngày cuối cùng của kỳ xếp loại, trường hợp ngày họp trùng vào ngày nghỉ, Lễ, Tết thì họp vào ngày làm việc đầu tiên tiếp theo.

2. Thời gian xếp loại tính từ ngày lập biên bản tiếp nhận phạm nhân vào trại giam, phân trại quản lý phạm nhân của trại tạm giam hoặc buồng quản lý phạm nhân của nhà tạm giữ được chỉ định thi hành án phạt tù. Phạm nhân bị điều chuyển giữa các cơ sở giam giữ phạm nhân với nhau thì thời gian và kết quả xếp loại được tính liên tục cả quá trình trước và sau khi điều chuyển.

3. Mỗi phân trại thuộc trại giam thành lập Tiểu ban xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân để họp, xét xếp loại tháng, quý, 06 tháng và 01 năm cho phạm nhân; trại giam thành lập Hội đồng xếp loại chấp hành án phạt tù để họp xét xếp loại quý, 06 tháng và 01 năm cho phạm nhân. Trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện thành lập Hội đồng xếp loại chấp hành án phạt tù để họp xét xếp loại tháng, quý, 06 tháng và 01 năm cho phạm nhân. Phạm nhân lập công thì được xem xét nâng mức xếp loại chấp hành án phạt tù. Trường hợp phạm nhân khiếu nại về việc xếp loại thì trong thời gian 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn, Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân phải có văn bản trả lời cho phạm nhân.

4. Quyết định xếp loại quý, 06 tháng, 01 năm và Bản kiểm điểm của phạm nhân được lưu hồ sơ phạm nhân. Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân có trách nhiệm thông báo công khai kết quả xếp loại quý, 06 tháng, 01 năm cho phạm nhân biết; thông báo tình hình chấp hành án phạt tù, xếp loại 06 tháng đầu năm, 06 tháng cuối năm và 01 năm cho thân nhân hoặc người đại diện hợp pháp của phạm nhân.”

Theo đó, việc thiết lập hệ thống đánh giá liên tục từ tuần đến năm sẽ đảm bảo tính khách quan và công bằng trong xếp loại phạm nhân. Việc phân cấp rõ ràng về thời gian xếp loại (tháng/quý/năm) kết hợp với cơ chế khiếu nại minh bạch giúp phản ánh chính xác quá trình cải tạo. Đặc biệt, cơ chế công khai kết quả cho phạm nhân và thân nhân thể hiện tính dân chủ, tạo động lực thi đua tích cực trong môi trường giáo dục, cải tạo.

2. Điều kiện, tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù được quy định ra sao? 

Theo khoản 2 Điều 35 Luật Thi hành án hình sự năm 2019, điều kiện, tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù được quy định rằng:

Điều 35. Xếp loại chấp hành án phạt tù

2. Căn cứ kết quả thực hiện các tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù, nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân, học tập, lao động cải tạo, kết quả khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra để nhận xét, đánh giá và xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân theo một trong các mức tốt, khá, trung bình, kém.”

Bên cạnh đó, Điều 19 Nghị định số 118/2024/NĐ-CP (được sửa, bổ sung bởi Mục 3 Công văn số 836/CP-NC năm 2024) có hướng dẫn về tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù như sau:

Điều 19. Tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù

Việc nhận xét, đánh giá và quyết định kết quả xếp loại chấp hành án phạt tù cho mỗi phạm nhân được căn cứ theo các tiêu chuẩn sau:

1. Nhận rõ tội lỗi, ăn năn hối cải; trung thực khai báo, tố giác tội phạm mà mình biết; tích cực khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra.

2. Nghiêm chỉnh chấp hành quy định của pháp luật, bản án, quyết định của Tòa án và nội quy, quy định của cơ sở giam giữ phạm nhân; tích cực ngăn chặn, đấu tranh với các hành vi sai phạm; thực hiện nếp sống kỷ luật, trật tự, văn minh; không có thái độ, lời nói, việc làm tiêu cực, gây chia rẽ, mất đoàn kết và ảnh hưởng xấu đến người khác.

3. Tích cực, tự giác, gương mẫu trong lao động, học nghề, tham gia đầy đủ ngày công, lao động có kỷ luật, có năng suất, chất lượng, hoàn thành chỉ tiêu, định mức lao động; thực hiện tốt yêu cầu an toàn, vệ sinh lao động, bảo vệ môi trường; có ý thức tham gia thúc đẩy phong trào thi đua trong phạm nhân.

4. Tích cực, tự giác học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức; tôn trọng tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của mình và của người khác; có ý thức giúp đỡ phạm nhân khác cùng rèn luyện, học tập tiến bộ và phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội.”

*Đối với Tiêu chuẩn xếp loại chấp hành án phạt tù loại tốt, Điều 20 Nghị định 118/2024/NĐ-CP quy định như sau:

Điều 20. Xếp loại chấp hành án phạt tù loại tốt

1. Phạm nhân thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù quy định tại Điều 19 thì xếp loại tốt, cụ thể như sau:

a) Đối với tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 19

Nhận rõ tội lỗi là có thái độ, nhận thức nghiêm túc, đầy đủ về tính chất, mức độ và hậu quả hành vi phạm tội của mình đã gây ra, thành khẩn khai báo đúng sự thật về tội lỗi của mình;

Ăn năn hối cải là thể hiện sự hối hận sâu sắc về tội lỗi của mình, tin tưởng chính sách, pháp luật hình sự nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước; nêu cao ý thức, trách nhiệm, quyết tâm sửa chữa tội lỗi, chấp hành tốt Nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân, tích cực lao động, học tập tiến bộ để trở thành người có ích cho xã hội;

Trung thực khai báo, tố giác tội phạm là việc cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền thông tin mà mình biết về sự việc, hành vi phạm tội của người khác dù người đó đã bị bắt, đang chấp hành án phạt tù hay đang ở ngoài xã hội;

Tích cực khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra là đã thực hiện xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác, nộp án phí theo bản án, quyết định của Tòa án; hoặc chưa thực hiện xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác, nộp án phí nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì được coi là đã thực hiện đầy đủ việc tích cực khắc phục hậu quả, gồm: Có quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước của Tòa án có thẩm quyền hoặc có quyết định đình chỉ thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền; có văn bản thỏa thuận của người được thi hành án hoặc đại diện hợp pháp của người được thi hành án về việc không phải bồi thường thiệt hại hoặc đã nhận đủ tiền bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác theo bản án, quyết định của Tòa án được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc xác nhận; có bản án, quyết định của Tòa án tuyên tạm giữ tiền hoặc phong tỏa tài khoản để đảm bảo thi hành án mà số tiền tạm giữ hoặc số tiền trong tài khoản phong tỏa đó bằng hoặc lớn hơn số tiền phải thi hành; có tài sản đang bị kê biên để bảo đảm thi hành án mà được cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc xác nhận tài sản đó có giá trị bằng hoặc lớn hơn số tiền phải thi hành; đối với trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng hằng tháng được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được nhận cấp dưỡng cư trú, Cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc hoặc Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân xác nhận là đã thực hiện xong đến thời điểm để xếp loại; những phạm nhân thực hiện hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác, nộp án phí tại cơ sở giam giữ phạm nhân được Thủ trưởng cơ sở giam giữ xác nhận; phạm nhân khi thực hiện hành vi phạm tội là người dưới 18 tuổi mà Tòa án quyết định giao trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác cho bố, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp thì những người đó đã thực hiện xong hoặc phạm nhân đó đã nhiều lần viết thư, liên lạc bằng điện thoại hoặc trực tiếp đề nghị, vận động bố, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp thực hiện bồi thường thiệt hại nhưng mới thực hiện được một phần.

b) Đối với tiêu chuẩn quy định tại khoản 2 Điều 19

Phạm nhân thực hiện đầy đủ tiêu chuẩn này là phải chấp hành nghiêm các quy định pháp luật, bản án, quyết định của Tòa án, Nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân; tích cực ngăn chặn, đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, thái độ, hành vi sai phạm của phạm nhân khác; thực hiện tốt nếp sống kỷ luật, trật tự, văn minh, giao tiếp, ứng xử văn hóa của phạm nhân; không có thái độ, lời nói xuyên tạc sự thật, việc làm tiêu cực gây chia rẽ, mất đoàn kết, làm ảnh hưởng không tốt đến người khác.

c) Đối với tiêu chuẩn quy định tại khoản 3 Điều 19

Phạm nhân thực hiện đầy đủ tiêu chuẩn này là phải có tinh thần trách nhiệm cao, tự giác, tích cực trong lao động, học nghề, nghiêm túc chấp hành sự phân công của cán bộ; tham gia đầy đủ các ngày mà cơ sở giam giữ phạm nhân tổ chức cho phạm nhân lao động (trừ trường hợp ốm đau đột xuất không quá 04 ngày trong 01 tháng hoặc lý do khách quan, chính đáng khác phạm nhân không thể tham gia lao động được); lao động có chất lượng, hiệu quả, thực hiện nghiêm kỷ luật, an toàn, vệ sinh lao động; được cán bộ quản giáo biểu dương trong các buổi họp, sinh hoạt đội (tổ) phạm nhân.

d) Đối với tiêu chuẩn quy định tại khoản 4 Điều 19

Phạm nhân phải luôn nêu cao ý thức, tinh thần trách nhiệm, tự giác, tích cực tham gia học tập và các phong trào thi đua chấp hành án phạt tù do cơ sở giam giữ phạm nhân tổ chức; có ý thức tự rèn luyện bản thân, tu dưỡng đạo đức, phấn đấu để trở thành người có ích cho xã hội; tôn trọng danh dự, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, tài sản của bản thân và của người khác; quan tâm động viên, giúp đỡ phạm nhân khác trong lao động, học tập, rèn luyện và sinh hoạt để cùng trở thành người có ích cho xã hội.

2. Định kỳ nhận xét, đánh giá và xếp loại tốt

a) Nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù tuần

Phạm nhân có tất cả các ngày trong tuần được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù tốt thì tuần đó nhận xét, đánh giá tốt.

b) Xếp loại tháng

Phạm nhân xếp loại tốt khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Có ít nhất 21 ngày được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù tốt, trong đó 7 ngày cuối tháng phải được nhận xét, đánh giá tốt, các ngày còn lại được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù từ khá trở lên; phạm nhân mới chấp hành án được 21 ngày trong 01 tháng thì tất cả các ngày đó phải được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù tốt.

c) Xếp loại quý

Phạm nhân xếp loại tốt khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Có 03 tháng xếp loại tốt; có 02 tháng xếp loại tốt và tháng còn lại xếp loại khá (không có tuần nào trong tháng xếp loại khá bị nhận xét, đánh giá trung bình), trong đó tháng cuối quý phải xếp loại tốt; phạm nhân mới đủ thời gian xếp loại 02 tháng trong quý thì cả 02 tháng đó phải xếp loại tốt (không có tuần nào nhận xét, đánh giá khá).

Phạm nhân có tiền án thì phải có thêm thời gian theo dõi, thử thách, không xếp loại tốt ngay, trừ trường hợp lập công (có 01 tiền án thì quý đầu không xếp loại tốt, có 02 tiền án thì 02 quý đầu không xếp loại tốt, có từ 03 tiền án trở lên thì 04 quý đầu không xếp loại tốt).

d) Xếp loại 06 tháng

Phạm nhân xếp loại tốt khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Có 02 quý xếp loại tốt; quý thứ nhất xếp loại khá (không có tuần nào trong quý bị nhận xét, đánh giá trung bình), quý thứ hai xếp loại tốt nhưng trong 06 tháng đó phải đảm bảo có ít nhất 04 tháng xếp loại tốt; phạm nhân mới đủ thời gian xếp loại 04 tháng thì cả 04 tháng đều xếp loại tốt.

đ) Xếp loại 01 năm:

Phạm nhân xếp loại tốt khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Có 06 tháng đầu năm và 06 tháng cuối năm đều xếp loại tốt; có 06 tháng đầu năm xếp loại khá (không có tháng xếp loại trung bình), 06 tháng cuối năm xếp loại tốt (quý III và quý IV đều xếp loại tốt) và trong năm đó phải đảm bảo có ít nhất 08 tháng xếp loại tốt.

e) Đối với kỳ xếp loại quý, 06 tháng thì chỉ xếp loại tốt đối với phạm nhân có kỳ xếp loại quý, 06 tháng liền kề trước đó được xếp loại từ khá trở lên, trừ trường hợp lập công hoặc phạm nhân mới chấp hành đủ thời gian để xếp loại quý, 06 tháng.”

*Đối với Tiêu chuẩn xếp loại chấp hành án phạt tù loại khá, Điều 21 Nghị định 118/2024/NĐ-CP quy định như sau:

Điều 21. Xếp loại chấp hành án phạt tù loại khá

1. Phạm nhân xếp loại khá khi có kết quả thực hiện các tiêu chuẩn thi đua chấp hành án như sau:

a) Đã thực hiện đầy đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 19 của Nghị định này;

b) Đã cơ bản thực hiện đầy đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 19. Riêng tiêu chuẩn về tích cực khắc phục hậu quả chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ nhưng thuộc một trong các trường hợp sau:

Phạm nhân đã thi hành được ít nhất một phần hai tổng số tiền phải thi hành (bao gồm cả tiền phải thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác, nộp án phí) có biên lai, hóa đơn, chứng từ để chứng minh hoặc văn bản xác nhận kết quả thi hành của cơ quan thi hành án dân sự, đồng thời có bản cam kết tiếp tục thi hành khi có điều kiện, được Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân xác nhận. Trường hợp quyết định, bản án của Tòa án tuyên tạm giữ tiền hoặc phong tỏa tài khoản để đảm bảo thi hành án mà số tiền đó bằng hoặc nhiều hơn một phần hai số tiền phải thi hành hoặc có tài sản đang bị kê biên để bảo đảm thi hành án mà được cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc xác nhận tài sản đó có giá trị bằng hoặc nhiều hơn một phần hai số tiền phải thi hành, thì cũng được coi là đã thi hành được ít nhất một phần hai tổng số tiền phải thi hành trở lên. Trường hợp phát hiện phạm nhân có tiền, tài sản, có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành thì không được coi là tích cực khắc phục hậu quả.

Phạm nhân chưa thi hành hoặc đã thi hành được dưới một phần hai tổng số tiền phải thi hành nhưng thuộc một trong các trường hợp: Có đơn trình bày hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú xác nhận là đúng; có tài liệu xác định gia đình phạm nhân thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo. Các trường hợp này phải có bản cam kết tiếp tục thi hành khi có điều kiện, được Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân xác nhận.

Phạm nhân có hoàn cảnh gia đình khó khăn được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đúng, có nguyện vọng muốn được thực hiện nhiều lần tại cơ sở giam giữ phạm nhân hoặc tại cơ quan thi hành án dân sự thì phải viết cam kết thể hiện rõ số tiền nộp trong mỗi lần (số tiền nộp trong mỗi lần phải đảm bảo ít nhất bằng tổng số tiền còn phải thi hành chia cho số năm bị phạt tù của phạm nhân, nếu phải chấp hành hình phạt tù chung thân thì chia cho 30 năm; trường hợp cam kết thực hiện theo quý hoặc 06 tháng thì chia tương ứng như chia theo số năm), thời hạn nộp tiền phải vào tháng đầu tiên của kỳ đã cam kết nộp tiền, được Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân xác nhận. Trường hợp không thực hiện đúng cam kết thì không được coi là đã tích cực khắc phục hậu quả.

Phạm nhân chưa thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác, nộp án phí nhưng sau 01 tháng, kể từ ngày phạm nhân đến cơ sở giam giữ không liên lạc được với thân nhân thì phải có đơn trình bày hoàn cảnh (một tháng viết một lần vào thời điểm xếp loại tháng) và cam kết thực hiện khi có điều kiện, có xác nhận của Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân. Trường hợp sau 01 tháng mà phạm nhân đã liên lạc được với thân nhân thì phải thực hiện như trường hợp phạm nhân đã nêu ở trên của điểm này.

Phạm nhân có quyết định của cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc xác định chưa có điều kiện thi hành án thì phải viết bản cam kết thực hiện khi có điều kiện, có xác nhận Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân.

Các phạm nhân quy định ở điểm này nếu có tổng số tiền gửi lưu ký trong một tháng nhiều hơn ba lần định mức ăn một tháng mà Nhà nước cấp cho phạm nhân thì phải tự nguyện trích hết số tiền dư ra để thi hành. Nếu phạm nhân không thực hiện thì không được coi là tích cực khắc phục hậu quả (trừ phạm nhân bị ốm đau đang được điều trị, ốm đau thường xuyên; phạm nhân là thương binh, bệnh binh; phạm nhân là người khuyết tật hoặc có nhược điểm về thể chất, tinh thần; phạm nhân nữ có thai hoặc đang nghỉ thai sản; phạm nhân có con nhỏ đang ở cùng trong trại giam; phạm nhân là người già yếu, nam từ 70 tuổi, nữ từ 65 tuổi trở lên).

Bản cam kết, đơn trình bày hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, nêu tại điểm này 03 năm viết một lần, tính từ ngày cơ sở giam giữ phạm nhân nhận được đơn; tài liệu xác định gia đình phạm nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo được tính theo hằng năm, hết năm, nếu gia đình phạm nhân vẫn thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo thì phải tiếp tục gửi tài liệu xác định hộ nghèo, cận nghèo cho cơ sở giam giữ phạm nhân. Trường hợp đơn trình bày hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, tài liệu xác định gia đình thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo hết hạn vì lý do khách quan, bất khả kháng, thân nhân phạm nhân không kịp thời bổ sung đơn hoặc tài liệu mới thì đơn hoặc tài liệu đó vẫn được gia hạn áp dụng trong 01 tháng.

Phạm nhân có quốc tịch nước ngoài chưa thi hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác, nộp án phí thì phạm nhân viết thư vận động thân nhân khắc phục hậu quả. Cơ sở giam giữ phạm nhân gửi thư của phạm nhân cho Cục Cảnh sát quản lý trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, Bộ Công an (đối với trại giam do Bộ Công an quản lý) hoặc Cục Điều tra hình sự, Bộ Quốc phòng (đối với trại giam do Bộ Quốc phòng quản lý) để chuyển đến cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự nước mà phạm nhân mang quốc tịch hoặc cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam phối hợp giải quyết. Trong khi chờ giải quyết thì phạm nhân được coi là tích cực khắc phục hậu quả.

c) Chưa thực hiện đầy đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 3 Điều 19 do thuộc một trong các trường hợp hạn chế khả năng tham gia lao động hoặc được miễn hoặc giảm định mức lao động, gồm: phạm nhân bị ốm đau đang được điều trị hoặc bị ốm đau thường xuyên; phạm nhân là thương binh, bệnh binh; phạm nhân là người khuyết tật hoặc có nhược điểm về thể chất, tinh thần; phạm nhân nữ có thai hoặc đang nghỉ thai sản; phạm nhân có con nhỏ đang ở cùng trong trại giam; phạm nhân đã già yếu (nam từ đủ 70 tuổi, nữ từ đủ 65 tuổi trở lên).

2. Định kỳ nhận xét, đánh giá và xếp loại khá

Phạm nhân xếp loại khá khi không thuộc trường hợp xếp loại tốt quy định tại Điều 20 Nghị định này.

a) Nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù tuần:

Phạm nhân có tất cả các ngày trong tuần được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù từ khá trở lên thì tuần đó được nhận xét, đánh giá khá.

b) Xếp loại tháng

Phạm nhân xếp loại khá khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có ít nhất 21 ngày được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù từ khá trở lên, trong đó 07 ngày cuối tháng phải được nhận xét, đánh giá từ khá trở lên, các ngày còn lại không bị nhận xét, đánh giá kém; phạm nhân mới chấp hành án được 21 ngày trong 01 tháng thì tất cả các ngày phải được nhận xét, đánh giá từ khá trở lên.

c) Xếp loại quý

Phạm nhân xếp loại khá khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có cả 03 tháng trong quý xếp loại từ khá trở lên; có 02 tháng xếp loại từ khá trở lên (trong đó tháng cuối quý xếp loại từ khá trở lên) tháng còn lại xếp loại từ trung bình trở lên (không có tuần nào trong tháng nhận xét, đánh giá kém); phạm nhân mới đủ thời gian xếp loại 02 tháng trong quý thì cả 02 tháng đó phải xếp loại từ khá trở lên (không có tuần nào trong 02 tháng bị nhận xét, đánh giá trung bình).

d) Xếp loại 6 tháng

Phạm nhân xếp loại khá khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có 02 quý xếp loại từ khá trở lên; quý thứ nhất xếp loại trung bình (không có tuần nào bị nhận xét, đánh giá kém), quý thứ hai xếp loại khá trở lên nhưng trong 06 tháng đó phải có ít nhất 04 tháng xếp loại từ khá trở lên; phạm nhân mới đủ thời gian xếp loại 04 tháng thì cả 04 tháng phải xếp loại khá trở lên (không có tuần nào nhận xét, đánh giá trung bình).

đ) Xếp loại 01 năm

Phạm nhân xếp loại khá khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có 06 tháng đầu năm và 06 tháng cuối năm đều xếp loại từ khá trở lên; có 06 tháng đầu năm xếp loại trung bình (không có tháng xếp loại kém), 06 tháng cuối năm xếp loại khá trở lên (quý III, quý IV đều xếp loại khá trở lên) và trong năm đó phải bảo đảm có ít nhất 08 tháng xếp loại từ khá trở lên.

e) Đối với kỳ xếp loại quý, 06 tháng thì chỉ xếp loại khá đối với phạm nhân có kỳ xếp loại quý, 06 tháng liền kề trước đó xếp loại từ trung bình trở lên, trừ trường hợp lập công hoặc phạm nhân mới chấp hành đủ thời gian để xếp loại quý, 06 tháng.”

*Đối với Tiêu chuẩn xếp loại chấp hành án phạt tù loại trung bình, Điều 22 Nghị định 118/2024/NĐ-CP quy định như sau:

Điều 22. Xếp loại chấp hành án phạt tù loại trung bình

1. Phạm nhân xếp loại trung bình khi thuộc một trong các trường hợp sau: Không thuộc các trường hợp được xếp loại tốt, khá quy định tại Điều 20, Điều 21 của Nghị định này; phạm nhân được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người bị kết án phạt tù được tại ngoại hoặc người được hoãn chấp hành án phạt tù nhưng khi hết thời hạn không có mặt tại Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để chấp hành án và bị áp giải đi thi hành án; phạm nhân bị xử lý kỷ luật hoặc bị giam giữ riêng do thường xuyên vi phạm Nội quy cơ sở giam giữ đã được công nhận cải tạo tiến bộ (trường hợp đã được công nhận cải tạo tiến bộ nhưng vẫn thuộc một trong những trường hợp còn lại quy định tại Điều 23 của Nghị định này thì vẫn phải xếp loại kém).

2. Định kỳ nhận xét, đánh giá và xếp loại trung bình

a) Nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù tuần

Phạm nhân có tất cả các ngày trong tuần được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù trung bình trở lên thì tuần đó được nhận xét, đánh giá trung bình.

b) Xếp loại tháng

Phạm nhân xếp loại trung bình khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có ít nhất 21 ngày được nhận xét, đánh giá trung bình trở lên, trong đó 07 ngày cuối tháng không bị nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù kém; phạm nhân mới chấp hành án được 21 ngày trong 01 tháng thì tất cả các ngày được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù trung bình trở lên.

Phạm nhân bị xử lý kỷ luật hoặc bị giam giữ riêng do thường xuyên vi phạm Nội quy cơ sở giam giữ đã được công nhận cải tạo tiến bộ thì ít nhất 03 tháng liền kề sau tháng có quyết định công nhận đã cải tạo tiến bộ phải xếp loại trung bình; phạm nhân thuộc trường hợp quy định tại khoản 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 Điều 23 Nghị định này thì ít nhất 03 tháng liền kề sau quý cuối bị xếp loại kém phải xếp loại trung bình.

c) Xếp loại quý

Phạm nhân xếp loại trung bình khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có 03 tháng xếp loại trung bình; có tháng đầu xếp loại kém, 02 tháng cuối của quý xếp loại trung bình trở lên (không có tuần nào trong 2 tháng cuối nhận xét, đánh giá kém); phạm nhân mới đủ thời gian xếp loại 02 tháng thì cả 02 tháng xếp loại trung bình trở lên; phạm nhân được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người bị kết án phạt tù được tại ngoại hoặc người bị kết án phạt tù được hoãn chấp hành án nhưng khi hết thời hạn theo quy định không có mặt tại Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để chấp hành án và bị áp giải đi thi hành án thì quý đầu tiên khi đến cơ sở giam giữ phạm nhân chấp hành án xếp loại trung bình.

d) Xếp loại 06 tháng

Phạm nhân xếp loại trung bình khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có 02 quý xếp loại trung bình; quý thứ nhất xếp loại kém, quý thứ hai xếp loại trung bình trở lên (quý thứ hai không có tháng xếp loại kém); có quý thứ nhất xếp loại khá trở lên, quý thứ hai xếp loại trung bình; phạm nhân mới đủ thời gian xếp loại 04 tháng thì cả 04 tháng phải xếp loại trung bình trở lên.

đ) Xếp loại 01 năm

Phạm nhân xếp loại trung bình khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có 06 tháng đầu năm và 06 tháng cuối năm đều xếp loại trung bình; có 06 tháng đầu năm xếp loại từ khá trở lên và 06 tháng cuối năm xếp loại trung bình; có 06 tháng đầu năm xếp loại kém, 06 tháng cuối năm xếp loại trung bình nhưng trong năm đó phải bảo đảm có ít nhất 08 tháng xếp loại từ trung bình trở lên.”

*Đối với Tiêu chuẩn xếp loại chấp hành án phạt tù loại kém, Điều 23 Nghị định 118/2024/NĐ-CP quy định như sau:

Điều 23. Xếp loại chấp hành án phạt tù loại kém

Phạm nhân xếp loại kém khi thuộc một trong các trường hợp sau:

1. Không thuộc các trường hợp xếp loại tốt, khá, trung bình quy định tại các Điều 20, Điều 21, Điều 22 Nghị định này.

2. Phạm nhân bị xử lý kỷ luật hoặc bị giam giữ riêng do thường xuyên vi phạm Nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân mà chưa được công nhận đã cải tạo tiến bộ.

3. Phạm nhân phạm tội mới trong thời gian chấp hành án phạt tù thì bị xếp loại kém 04 quý đầu sau khi đến cơ sở giam giữ phạm nhân để chấp hành án theo quyết định thi hành án mới hoặc sau khi cơ sở giam giữ phạm nhân nhận được quyết định thi hành án mới.

4. Phạm nhân phạm tội mới trong thời gian chờ đi chấp hành án, hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thì bị xếp loại kém 04 quý đầu sau khi đến cơ sở giam giữ phạm nhân chấp hành án theo quyết định thi hành án mới.

Trường hợp trong thời gian được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù mà vi phạm pháp luật ảnh hưởng đến an ninh trật tự hoặc bỏ trốn và bị Tòa án ra quyết định hủy quyết định hoãn, tạm đình chỉ thì xếp loại kém 02 quý đầu sau khi đến cơ sở giam giữ phạm nhân chấp hành án.

5. Phạm nhân đã được tha tù trước thời hạn có điều kiện mà phạm tội mới trong thời gian thử thách thì bị xếp loại kém 04 quý đầu sau khi trở lại chấp hành án phạt tù theo quyết định thi hành án mới.

Trường hợp phạm nhân đã được tha tù trước thời hạn có điều kiện vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách và bị Tòa án buộc đưa trở lại cơ sở giam giữ phạm nhân để tiếp tục chấp hành án phạt tù còn lại thì 02 quý đầu bị xếp loại kém.

6. Phạm nhân không tự nguyện khai báo với cơ sở giam giữ phạm nhân về hành vi phạm tội của mình, nếu bị phát hiện và bị xét xử bằng một bản án khác thì bị xếp loại kém 04 quý sau khi đến cơ sở giam giữ phạm nhân chấp hành án phạt tù theo quyết định thi hành án mới hoặc sau khi cơ sở giam giữ phạm nhân nhận được quyết định thi hành án mới.

7. Phạm nhân đã bị xét xử bằng một bản án khác với bản án đang phải thi hành nhưng không trung thực khai báo thì bị xếp loại kém 04 quý, kể từ ngày bị phát hiện.

8. Phạm nhân được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh mà trong thời gian thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh đã bỏ trốn hoặc vi phạm Nội quy cơ sở bắt buộc chữa bệnh từ 02 lần trở lên thì bị xếp loại kém 02 quý đầu sau khi trở lại chấp hành án phạt tù. Trường hợp phạm tội mới trong thời gian thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì bị xếp loại kém 04 quý đầu sau khi trở lại chấp hành án phạt tù theo quyết định thi hành án mới.

9. Phạm nhân đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết, trả lời khiếu nại theo quy định của pháp luật nhưng vẫn cố tình khiếu nại trái pháp luật về bản án, quyết định của Tòa án hoặc khiếu nại về vấn đề khác liên quan đến việc chấp hành án phạt tù của mình thì bị xếp loại kém cho đến khi chấm dứt khiếu nại.

10. Phạm nhân thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam hoặc trong thời gian được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo hoặc bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc trong thời gian thi hành án treo, cải tạo không giam giữ thì bị xếp loại kém 02 quý đầu sau khi đến cơ sở giam giữ chấp hành án phạt tù.”

Như vậy, việc đưa ra tiêu chuẩn xếp loại đối với phạm nhân quy định tại Nghị định 118/2024/NĐ-CP thể hiện hệ thống đánh giá đa dạng, có tính giáo dục cao đối với phạm nhân. Các tiêu chuẩn xếp loại từ "tốt" đến "kém" được xây dựng chi tiết, rõ ràng, dựa trên nhiều yếu tố như ý thức chấp hành nội quy, kết quả lao động, học tập và khắc phục hậu quả,... Cách tiếp cận này không chỉ đảm bảo kỷ cương trong trại giam mà còn tạo động lực để phạm nhân phấn đấu, hướng tới mục tiêu tái hòa nhập cộng đồng.

Trân trọng./.

Góp ý