Chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh là gì? Chứng cứ được thu thập từ các nguồn nào?

Chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh là gì? Chứng cứ được thu thập từ các nguồn nào?

Chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh là gì? Chứng cứ được thu thập từ các nguồn nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là chủ một công ty nhỏ sản xuất nước giải khát. Gần đây, tôi phát hiện một đối thủ trên thị trường liên tục tung ra thông tin sai sự thật về sản phẩm của tôi, khiến doanh số sụt giảm nghiêm trọng. Tôi nghi ngờ họ vi phạm pháp luật về cạnh tranh và muốn gửi đơn khiếu nại. Tuy nhiên, tôi không rõ trong quá trình giải quyết vụ việc, cơ quan chức năng sẽ dựa vào những loại tài liệu, thông tin nào để làm căn cứ xử lý. Vậy pháp luật cạnh tranh quy định thế nào về chứng cứ, thu thập từ những nguồn nào để xử lý vụ việc? Mong luật sư tư vấn giúp, xin cảm ơn.

MỤC LỤC

1. Chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh là gì?

2. Chứng cứ được thu thập từ các nguồn nào?

 

Trả lời:

1. Chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh là gì?

Trong quá trình giải quyết các vụ việc cạnh tranh, việc xác định sự thật khách quan của vụ việc đóng vai trò quyết định. Để làm được điều này, cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh phải dựa vào chứng cứ. Do đó, khoản 1 Điều 56 Luật Cạnh tranh 2018 đã quy định:

Điều 56. Chứng cứ

1. Chứng cứ là những gì có thật, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, doanh nghiệp có hành vi vi phạm và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc cạnh tranh.”

Vậy là, trong tố tụng cạnh tranh, chứng cứ được hiểu là những gì có thật, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, xác định doanh nghiệp có hành vi vi phạm và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc cạnh tranh.

Như vậy, chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh là nền tảng để xác định đúng bản chất vụ việc, đảm bảo quyết định xử lý được đưa ra dựa trên sự thật khách quan và đúng pháp luật. Việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ một cách chặt chẽ, hợp pháp không chỉ nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp mà còn góp phần duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng trên thị trường. Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 56 Luật Cạnh tranh 2018 còn quy định về việc xác định chứng cứ như sau:

Điều 56. Chứng cứ

3. Việc xác định chứng cứ được quy định như sau:

a) Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan hoặc có thẩm quyền cung cấp, xác nhận;

b) Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình đó;

c) Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử;

d) Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc;

đ) Lời khai, lời trình bày của người làm chứng; lời khai, lời trình bày, giải trình của bên khiếu nại, bên bị khiếu nại, bên bị điều tra hoặc của tổ chức, cá nhân có liên quan được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác lưu trữ âm thanh, hình ảnh quy định tại điểm a và điểm b khoản này hoặc khai bằng lời tại phiên điều trần;

e) Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định.”

Từ những nội dung trên có thể thấy, pháp luật đã quy định rõ ràng và chi tiết về các loại chứng cứ được chấp nhận trong tố tụng cạnh tranh, cùng với điều kiện để chứng cứ đó có giá trị pháp lý. Việc xác định và sử dụng chứng cứ không chỉ yêu cầu tính xác thực, khách quan mà còn phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định. Điều này nhằm bảo đảm rằng mọi quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh đều dựa trên cơ sở chứng minh vững chắc, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đồng thời duy trì trật tự và sự công bằng trên thị trường.

2. Chứng cứ được thu thập từ các nguồn nào?

Trong tố tụng cạnh tranh, việc xác định nguồn để thu thập chứng cứ đóng vai trò then chốt để bảo đảm tính hợp pháp, khách quan và độ tin cậy của thông tin sử dụng trong quá trình giải quyết vụ việc. Tại khoản 2 Điều 56 Luật Cạnh tranh 2018 đã ghi nhận những nguồn mà chứng cứ có thể được thu thập từ đó như sau:

Điều 56. Chứng cứ

2. Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:

a) Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử;

b) Vật chứng;

c) Lời khai, lời trình bày của người làm chứng;

d) Lời khai, lời trình bày, giải trình của bên khiếu nại, bên bị điều tra hoặc tổ chức, cá nhân liên quan;

đ) Kết luận giám định;

e) Biên bản trong quá trình điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh;

g) Tài liệu, đồ vật khác hoặc nguồn khác theo quy định của pháp luật.”

Theo đó, quy định trên đã liệt kê các nguồn để thu thập chứng cứ bao gồm:

- Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử;

- Vật chứng;

- Lời khai, lời trình bày của người làm chứng;

- Lời khai, lời trình bày, lời giải trình của bên khiếu nại, bên bị điều tra hoặc tổ chức, cá nhân liên quan;

- Kết luận giám định;

- Biên bản trong quá trình điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh;

- Tài liệu, đồ vật khác hoặc nguồn khác theo quy định của pháp luật.

Từ đó, thấy rằng chứng cứ có thể được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau. Việc thu thập chứng cứ từ đúng nguồn theo quy định pháp luật là điều kiện bắt buộc để đảm bảo tính hợp pháp và giá trị chứng minh của chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh. Quy định rõ ràng về nguồn chứng cứ không chỉ giúp cơ quan chức năng thuận lợi trong việc kiểm chứng, đánh giá thông tin, mà còn góp phần bảo đảm sự minh bạch, công bằng và khách quan trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý