Nội dung hủy án:
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nhận thấy: Tòa án hai cấp xét xử các bị cáo Mai Kim L, Lê Xuân Đ, Trương Văn T, Nguyễn Xuân Tùng D, Phan Thanh P, Đoàn Dương Ph, Nguyễn Thanh T1, Nguyễn Đình C về các tội danh "Cướp tài sản" và tội "Trộm cắp tài sản" là có căn cứ. Tuy nhiên, về hình phạt thì đánh giá chưa đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo, chưa xem xét nhân thân đầy đủ, áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999, để tuyên phạt mức án dưới khung hình phạt không đúng quy định của pháp luật. Cụ thể như sau:
(i) Đối với Mai Kim L: Bị cáo tham gia 05 vụ (01 vụ trộm cắp tài sản, 04 vụ cướp tài sản) vai trò đầu vụ cả hai tội danh “Cưóp tài sản” và “Trộm cắp tài sản”, bị cáo cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm, chủ động tìm công cụ phạm tội, lôi kéo, xúi giục người khác cùng phạm tội và phân chia lại tiền do phạm tội mà có cho đồng bọn. Bị cáo phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần, phải chịu tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999. Nguyên tắc xử lý quy định tại Điều 3 Bộ luật Hình sự năm 1999: "Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy...", nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo dưới khung cả hai tội danh là không đúng pháp luật.
(ii) Đối với Lê Xuân Đ: Bị cáo tham gia 04 vụ (01 vụ trộm cắp tài sản, 03 vụ Cướp tài sản) là người thực hành tích cực nhất trong nhóm. Bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” với 02 tình tiết định khung; có 01 tiền án chưa được xóa; phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” đối với cả hai tội danh và chịu tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự 1999 đối với tội "Cướp tài sản". Tòa sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 07 năm tù ở mức hình phạt đối với tội “Cướp tài sản” là thiếu nghiêm khắc. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử dưới khung đối với tội "Trộm cắp tài sản" (09 tháng tù) là không đúng.
(iii) Đối với bị cáo Trương Văn T thực hiện 03 vụ (01 vụ Trộm cắp tài sản, 02 vụ Cướp tài sản) và Nguyễn Xuân Tùng D thực hiện 02 vụ Cướp tài sản: Cả hai bị cáo đều có vai trò người thực hành tích cực. Trong đó, bị cáo D có nhân thân xấu, bị cáo T phạm nhiều tội, cả hai bị cáo đều phải chịu tình tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần" quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội"Cướp tài sản", nhưng Tòa án hai cấp đều áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt dưới khung đối với hai bị cáo là không đúng; về tội Trộm cắp tài sản, Tòa án hai cấp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 1999, xử dưới khung đối với bị cáo T là không nghiêm.
(iv) Đối với bị cáo Phan Thanh P: Tham gia 01 vụ Cướp tài sản, vai trò là người thực hành, chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, nhân thân xấu (từng bị xử phạt tù cho hưởng án treo, bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản), nhưng không ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội đã bỏ trốn gây khó khăn cho Cơ quan điều tra. Trong thời gian trốn, bị cáo tiếp tục phạm tội "Cưóp tài sản", bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 08 năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2017/HSST ngày 15/3/2017. Hiện đang chấp hành bản án này. Tòa án hai cấp áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử bị cáo dưới khung là không đúng.
(v) Đối với bị cáo Đoàn Dương Ph: Tham gia 01 vụ Cướp tài sản ngày 02/12/2015, trực tiếp cầm công cụ hỗ trợ là cây roi điện uy hiếp ông Nguyễn Duy T3 để cho đồng bọn chiếm đoạt tài sản. Bị cáo là người thực hành nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo vai trò người giúp sức là không đúng với hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự Ị999. Do đó,Tòa án hai cấp áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử bị cáo dưới khung là không có căn cứ.
(vi) Đối với bị cáo Nguyễn Thanh T1: Tham gia 01 vụ cướp tài sản, vai trò là người thực hành, ngày 14/12/2015, bị cáo đã dùng hung khí nguy hiểm (dao rựa) chém anh Trần Văn Ph thương tích 05%. Sau khi gây án, bị cáo còn phi tang hung khí để che giấu tội phạm. Thương tích của anh Ph mà bị cáo đã gây ra phải xác định là hậu quả của tội phạm, nhưng bị cáo không có ý thức khắc phục, không ăn năn hối cải. BỊ cáo chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999, Tòa án sơ thẩm áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 1999 xử phạt bị cáo 03 năm 06 tháng tù là không có căn cứ.
(vii) Đối với bị cáo Nguyễn Đình C: Sau khi mua lại máng ngân do Mai Kim L cướp được vào ngày 02/12/2015, tới ngày 04/12/2015 Nguyễn Đình C trực tiếp dẫn đường, chỉ điểm cho Mai Kim L cùng đồng bọn thực hiện vụ cướp tại lán trại của ông Võ Văn L3. Bị cáo có vai trò giúp sức tích cực, phạm tội thuộc trường hợpp có tổ chức, Tòa sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 năm tù đã là nhẹ, Tòa án phúc thẩm sửa án sơ thẩm cho bị cáo hưởng án treo là trái với hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: "2. Không cho hưởng án treo nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Người phạm tội thuộc đối tượng cần phải nghiêm trị quy định tại khoản 2 Điều 3 của Bộ luật hình sự bao gồm: ...có tổ chức...".