Quyết định giám đốc thẩm số 05/2024/HS-GĐT ngày 29/01/2024 của Tòa án nhân dân tối cao xét xử vụ án hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Phú N do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung hủy án:
1. Nguyễn Phú N đã tạo niềm tin với bà Nguyễn Thị T1 từ lần mua lúa thứ nhất, nhưng bắt đầu có thủ đoạn gian dối đối với bà T1 từ lần mua lúa thứ hai. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm chưa làm rõ thủ đoạn gian dối của Nguyễn Phú N là không có cơ sở.
2. Đối với nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm về việc chưa đủ căn cứ xác định Nguyễn Phú N tự giới thiệu là Phó Giám đốc Công ty Thủy L, thấy rằng: mặc dù, tại Biên bản đối chất ngày 04/7/2018 giữa bà Nguyễn Thị T1 và Nguyễn Phú N, N không thừa nhận tự giới thiệu là Phó Giám đốc Công ty và khai việc mua lúa với bà T1 là với tư cách cá nhân. Tuy nhiên, căn cứ vào Kết luận giám định số 259/KL-KTHS ngày 18/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp có nội dung chữ viết, chữ ký trên giấy Biên nhận là do Nguyễn Phú N viết, phù hợp với lời khai của bà T1 và ông Nguyễn Văn H (chồng bà T1) có nội dung khi thỏa thuận mua lúa với bà T1, N lấy danh nghĩa là Phó Giám đốc Công ty Thủy L. Hơn nữa, ông Trịnh Công D có văn bản xác nhận N không phải là thành viên của Công ty, không được cử là người đại diện Công ty ký hợp đồng mua lúa của nông dân. Do đó, có đủ căn cứ xác định Nguyễn Phú N tự nhận là Phó Giám đốc Công ty để mua lúa của bà T1. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định chưa đủ căn cứ xác định Nguyễn Phú N tự giới thiệu là Phó Giám đốc Công ty Thủy L là đánh giá không toàn diện chứng cứ.
3. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng thời điểm Nguyễn Phú N nhận tiền từ Công ty (ngày 27/3/2018) đến thời điểm bà Nguyễn Thị T1 trình báo Công an (ngày 28/3/2018) là khoảng thời gian rất ngắn; việc bị cáo chậm thanh toán cho bà T1 không đủ cơ sở chứng minh bị cáo chiếm đoạt tiền của bà T1. Nhận định này của Tòa án cấp phúc thẩm là không đúng. Bởi lẽ:
- Theo nội dung giấy Biên nhận, thì Nguyễn Phú N hẹn “thứ hai chuyển tiền”, nên ngày 26/3/2018 (là Thứ hai), bà Nguyễn Thị T1 gọi điện cho N yêu cầu thanh toán tiền. Ngày 27/3/2018 (là Thứ ba), Công ty Thủy L thanh toán tiền mua lúa cho N bằng chuyển khoản, nhưng N không chuyển tiền thanh toán cho bà T1, mặc dù ngày 27/3/2018, bà T1 tiếp tục gọi điện đòi tiền, N hứa hẹn nhiều lần rồi không nghe máy. Do không liên lạc được với N, nên bà T1 mới đến Công ty Thủy L để đòi tiền thì mới biết được N không phải là Phó Giám đốc của Công ty. Trong ngày 27/3/2018, N đã nhiều lần chuyển tiền từ số tiền đã nhận của Công ty Thủy L cho các cá nhân khác là 840.783.600 đồng, rút chi tiêu cá nhân 200.110.000 đồng, mà không thanh toán cho bà T1. Những ngày sau đó, N tiếp tục chuyển tiền cho những người khác; sau khi bị bắt (ngày 04/4/2018), trong tài khoản của N chỉ còn 139.096 đồng.
- Thời gian từ khi Nguyễn Phú N nhận được tiền từ Công ty Thủy L cho đến khi bà T1 trình báo Công an tuy chỉ cách nhau một ngày, nhưng hành vi phạm tội đã hoàn thành, số tiền nhận được từ Công ty Thủy L lẽ ra phải được chuyển thanh toán cho bà T1 (như đã hẹn) thì N lại chuyển cho những người khác và sử dụng cho mục đích cá nhân dù bà T1 liên tục liên lạc tìm N để đòi tiền. Do đó, đủ cơ sở xác định hành vi chiếm đoạt của Nguyễn Phú N.