Quyết định giám đốc thẩm số 02/2024/HS-GĐT ngày 29/01/2024 của Tòa án nhân dân tối cao xét xử vụ án hình sự về tội “Làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả” đối với bị cáo Trần Hoài P do có kháng nghị của Viện kiểm sát

Quyết định giám đốc thẩm số 02/2024/HS-GĐT ngày 29/01/2024 của Tòa án nhân dân tối cao xét xử vụ án hình sự về tội “Làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả” đối với bị cáo Trần Hoài P do có kháng nghị của Viện kiểm sát

Nội dung hủy án:

1. Thẩm phán Huỳnh Ngọc T ban hành Công văn số 10/CV-TA ngày 31/8/2022 về việc sửa chữa, đính chính bản án là không đúng quy định tại khoản 1 Điều 261 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Không được sửa chữa, bổ sung bản án trừ trường hợp phát hiện có lỗi rõ ràng về chính tả, số liệu do nhầm lẫn hoặc do tính toán sai. Việc sửa chữa, bổ sung bản án không được làm thay đổi bản chất vụ án hoặc bất lợi cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác…”; Thẩm phán Huỳnh Ngọc T ban hành Công văn sửa chữa, đính chính bản án và ký Công văn nêu trên với tư cách là Chánh tòa hình sự là không đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 261 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Việc sửa chữa, bổ sung bản án quy định tại khoản 1 Điều này do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã ra bản án, quyết định thực hiện. Trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không thể thực hiện được thì việc sửa chữa, bổ sung bản án do Chánh án Tòa án đã xét xử vụ án đó thực hiện”. Việc đính chính mức hình phạt tù đối với Trần Hoài P là 10 năm tù (theo hướng bất lợi cho Trần Hoài P) là không đúng quy định pháp luật.

2. Vi phạm trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Trần Anh K, Phạm Chí C, Điền Hòa Đức A nộp tiền thu lợi bất chính là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b (người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả) khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là áp dụng pháp luật không đúng. Các bị cáo Lê Ngọc H, Lưu Mộng Như Q, Trần Anh K, Phạm Chí C được áp dụng tình tiết quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (tích cực giúp đỡ cơ quan tiến hành tố tụng điều tra trong quá trình giải quyết vụ án) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không nêu cụ thể là tích cực giúp đỡ cơ quan tiến hành tố tụng điều tra trong quá trình giải quyết vụ án như thế nào, có phát hiện tội phạm mới không? Ngoài ra, việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Út H1, Dương Hào N nhưng không nói rõ là gia đình có công với cách mạng như thế nào, bị cáo có thành tích gì là không đầy đủ, toàn diện. Tuy nhiên, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo Trần Anh K, Phạm Chí C, Điền Hòa Đức A, Lưu Ngọc H, Lưu Mộng Như Q, Nguyễn Út H1, Dương Hào N là đúng pháp luật, tương xứng với vai trò, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nên không cần thiết phải xem xét lại về hình phạt đối với với các bị cáo này.

3. Bản án hình sự sơ thẩm ghi “từ ngày 21/01/2021 đến ngày 26/01/2011, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu…”; Quyết định hoãn phiên tòa số 58/2020/QĐ-HPT ngày 23/12/2020, thời gian mở lại phiên tòa vào 08 giờ 00 phút ngày 20/01/2021; Biên bản phiên tòa ghi: “Vào hồi 08 giờ 00 phút ngày 20/01/2021… Phiên tòa tạm nghỉ vào 16 giờ ngày 20/01/2021”; Biên bản nghị án ghi 16 giờ ngày 20/01/2021, kết thúc nghị án vào hồi 17 giờ 45 phút ngày 20/01/2021. Như vậy, Bản án sơ thẩm ghi ngày diễn ra phiên tòa không đúng với biên bản phiên tòa và biên bản nghị án.

4. Quyết định tạm giam số 09/2021/HSST-QĐTG ngày 26/01/2021 đối với bị cáo Trần Hoài P do Thẩm phán Huỳnh Ngọc T ký thay mặt Hội đồng xét xử, có nội dung Trần Hoài P bị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 08 năm tù về tội “Lưu hành tiền giả” theo khoản 3 Điều 207 Bộ luật Hình sự là không đúng với phần hình phạt, điều khoản áp dụng đối với bị cáo Trần Hoài P trong bản án; các Quyết định tạm giam 45 ngày đối với các bị cáo trong vụ án, đều ghi căn cứ biên bản nghị án ngày 26/01/2021 của Hội đồng xét xử sơ thẩm là không đúng ngày ghi trong biên bản nghị án (Biên bản nghị án ngày 20/01/2021). Phần lý lịch người bị kết án, bản án sơ thẩm có sai sót trong việc ghi tiền án, tiền sự của Trần Hoài P, phần tiền án ghi không, phần tiền sự ghi 02 lần bị kết án vào năm 2011, 2020.

5. Về vi phạm thủ tục tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm: Sau khi xét xử sơ thẩm, Trần Hoài P, Lê Ngọc H, Phạm Ngọc D và Phạm Chí C có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 01/10/2021, Trần Hoài P có đơn xin rút đơn kháng cáo. Ngày 27/10/2021, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có Thông báo số 40/2021/TB-TA về việc rút kháng cáo của Trần Hoài P. Quá trình thụ lý, xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và những sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm. Trong phần nhận định của Bản án hình sự phúc thẩm số 144/2022/HSPT ngày 29/3/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có nội dung: “đối với bị cáo Trần Hoài P đã có đơn rút kháng cáo trước khi xét xử phúc thẩm, Tòa án đã có quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo”. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án không có Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Trần Hoài P và trong phần quyết định của bản án phúc thẩm nêu trên chỉ quyết định không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Ngọc H, Phạm Ngọc D, Phạm Chí C; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2021/HSST ngày 26/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu mà không quyết định đối với bị cáo Trần Hoài P là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, không đúng quy định tại khoản 2 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị trước khi mở phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo, kháng nghị đã rút”.

6. Về vi phạm thủ tục tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm: Sau khi xét xử sơ thẩm, Trần Hoài P, Lê Ngọc H, Phạm Ngọc D và Phạm Chí C có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 01/10/2021, Trần Hoài P có đơn xin rút đơn kháng cáo. Ngày 27/10/2021, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có Thông báo số 40/2021/TB-TA về việc rút kháng cáo của Trần Hoài P. Quá trình thụ lý, xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và những sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm. Trong phần nhận định của Bản án hình sự phúc thẩm số 144/2022/HSPT ngày 29/3/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có nội dung: “đối với bị cáo Trần Hoài P đã có đơn rút kháng cáo trước khi xét xử phúc thẩm, Tòa án đã có quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo”. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án không có Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Trần Hoài P và trong phần quyết định của bản án phúc thẩm nêu trên chỉ quyết định không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Ngọc H, Phạm Ngọc D, Phạm Chí C; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2021/HSST ngày 26/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu mà không quyết định đối với bị cáo Trần Hoài P là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, không đúng quy định tại khoản 2 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị trước khi mở phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo, kháng nghị đã rút”.

Bài viết liên quan

Góp ý