Nội dung sửa án:
(i) Về nội dung: Theo lời khai của các đương sự có trong hồ sơ và tại phiên tòa, có căn cứ xác định: Ngày 01 tháng 10 năm 2020, ông Trần Hồng C và vợ chồng bà Nguyễn Thị H, ông Vũ Ngọc B ký hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng thửa đất số 41, tờ bản đồ số 27 (thửa cũ số 27, tờ bản đồ số 16), xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Ông C đã đặt cọc 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng) và cam kết, trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày 01/10/2020 các bên sẽ ký công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Thực hiện hợp đồng, đến ngày 23/11/2020 hai bên đến Phòng công chứng để ký hợp đồng chuyển nhượng, thì phát hiện thửa đất bị Thi hành án Dân sự huyện Long Thành áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm chuyển dịch tài sản theo Công văn số 436/CVCCTHADS ngày 12/11/2020. Ngày 24/11/2020, bà H nhận được Công văn về việc giải tỏa biện pháp ngăn chặn số 449/CV-CCTHADS ngày 18/11/2020 do Thi hành án dân sự huyện Long Thành giao. Theo nguyên đơn, sau khi đất đủ điều kiện chuyển nhương, nhưng bị đơn tự ý chuyển nhượng đất cho người khác là vi phạm hợp đồng, nên phải trả lại tiền cọc và chịu phạt cọc; còn bị đơn cho rằng ngày 28/11/2020 nguyên đơn đến thông báo không đồng ý mua đất nữa, nên vi phạm hợp đồng, phải mất cọc. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm, hai bên đương sự thống nhất hủy hợp đồng nhận cọc ngày 01/10/2020; vợ chồng ông B, bà H trả cho ông C số tiền cọc là 1.000.000.000 đồng và tiền lãi là 180.000.000 đồng, tổng số tiền phải trả là 1.180.000.000 đồng, thời hạn trả chậm nhất đến ngày 20/11/2024; về án phí, bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật. Việc thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội, do đó HĐXX phúc thẩm chấp nhận, sửa bản án sơ thẩm theo sự thỏa thuận của đương sự.
(ii) Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền 1.180.000.000đ phải thanh toán cho nguyên đơn, cụ thể là: 36.000.000đ + 11.400.000đ (380.000.000đ x 3%) = 47.400.000đ. Án phí phúc thẩm bị đơn không phải chịu. Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nên nguyên đơn không phải chịu án phí sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí nguyên đơn đã nộp 36.000.000đ được trả lại cho nguyên đơn, nhưng án sơ thẩm không tuyên nội dung này là thiếu sót, cấp phúc thẩm cần bổ sung và rút kinh nghiệm với cấp sơ thẩm.