Bản án dân sự phúc thẩm số 68/2024/DS-PT ngày 26/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu về việc tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Nội dung sửa án 

Xét về quá trình biến động đất tranh chấp:

Nguyên đơn ông Trương Văn T trình bày, đất tranh chấp ông đã cố cho bà Trần Thị T1 từ năm 1995 với giá 18 chỉ vàng 24k, không thoả thuận thời hạn chuộc. Tuy nhiên, các bên không có lập giấy tờ về việc cố đất. Bà Trần Thị T1 không thừa nhận có nhận cố đất của ông T và ông T cũng không cung cấp được chứng cứ nào khác có tồn tại hợp đồng cố đất này.

Bị đơn bà Nguyễn Thị H cho rằng: Bà nhận chuyển nhượng đất tranh chấp từ ông Nguyễn Văn H7, trước đó ông Phùng Văn L1 nhận chuyển nhượng đất từ ông Trương Văn T và ông L1 chuyển nhượng lại cho ông H7. Bà H cung cấp chứng cứ là 02 Giấy tay nhượng đất giữa ông Trương Văn T với ông Phùng Văn L1 (Trưởng ấp xác nhận ngày 19/12/2000-bút lục 49); ông Phùng Văn L1 với ông Nguyễn Văn H7 ngày 21/9/1999 (Trưởng ấp xác nhận ngày 06/3/2001-bút lục 50). Ông T không thừa nhận ký tên vào các Giấy nhượng đất này. Song, ông T chỉ phản bác việc ông không có ký tên mà không đưa ra chứng cứ để chứng minh chữ ký tên T không phải của ông, theo quy định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại biên bản lấy lời khai ông Nguyễn Văn P – nguyên Trưởng ấp ấp B, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu: Ông không trực tiếp chứng kiến các đương sự ký tên vào Giấy nhượng đất, nhưng ông là người sinh sống và làm việc tại địa phương, ông biết ông T cố đất, không có tiền trả nên nhận thêm vàng ký giấy tay nhượng đất cho ông L1, ông L1 là con rể của bà T1 (bút lục 136). Ông xác định ông T chuyển nhượng đất cho ông L1 và ông L1 chuyển nhượng đất cho ông H7 (bút lục 135).

Tại biên bản lấy lời khai ông Phùng Văn L1, ông L1 cũng xác định có việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và lập giấy tay như bà H, ông P đã trình bày (bút lục 133-134).

Tại biên bản lấy lời khai ông Phạm Văn N2 (ông N2 là cháu của ông T) cho biết: “Khoảng năm 1999-2000, ông T có chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn L1 khoảng 07 công tầm cấy. Việc chuyển nhượng đất thì ông T và ông L1 có viết giấy tay là Giấy nhượng đất nêu trên. Giấy này có tôi ký tên ở phần “bàng chứng kế cận” ở phần thứ 3 ghi tên tôi là Trương N3, nhưng ghi sai họ nên có gạch bỏ nhưng chữ ký vẫn là do tôi ký” (bút lục 219).

Tại biên bản lấy lời khai bà Trương Thị T9 (em ông T) cho biết: Bà ở cặp ranh đất nên biết khoảng năm 1997-1998, vợ chồng ông T hoàn cảnh nghèo nên có mua tạp hoá nợ tiền của bà T1, không có khả năng trả và bà T1 có đưa thêm vài chỉ vàng 24K cho ông T, bà trực tiếp chứng kiến. Việc ông T giao đất và nhận vàng do các bên thoả thuận cầm cố hay chuyển nhượng thì bà không biết (bút lục 137).

Xét về quá trình quản lý, sử dụng đất tranh chấp: Bà Nguyễn Thị H là người trực tiếp quản lý đất tranh chấp từ năm 1999, đến năm 2000 cho ông Nguyễn Văn T3 và bà Nguyễn Thị H5 sử dụng cho đến thời điểm phát sinh tranh chấp (năm 2019). Trên đất tranh chấp, ông T3 và bà H5 có xây dựng một căn nhà tạm, đến năm 2012 xây dựng nhà kiên cố cặp bên nhà tạm (bút lục 119-123). Quá trình quản lý, sử dụng đất tranh chấp phù hợp với biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Toà án ngày 03/9/2019 (bút lục 66-69). Ông T cho rằng cố đất cho bà T1, khi có người thứ ba sử dụng đất, xây dựng nhà kiên cố, ông T có đất giáp phần đất đang tranh chấp nhưng không phản đối hoặc ngăn cản.

Từ phân tích tại tiểu mục [3.2] và [3.3], có căn cứ xác định bà Nguyễn Thị H đã nhận chuyển nhượng đất tranh chấp. Mặc dù giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên quy phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức, nhưng bà Nguyễn Thị H đã thực hiện nghĩa vụ trả tiền xong, quản lý, sử dụng đất tranh chấp thời gian dài, được xem là đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch, nên đã phát sinh hiệu lực. Cấp sơ thẩm nhận định các giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không đúng, theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Bài viết liên quan

Góp ý