Nội dung sửa án:
(i) Xét kháng cáo của bà P về việc yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết sửa bản án dân sự sơ thẩm số 15/2023/DS-ST ngày 20/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, theo hướng chấp nhận yêu cầu độc lập của bà và không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà N; tuyên bố 02 thoả thuận về chuyển nhượng và cầm cố giữa ông H với bà N là vô hiệu (đối với phần đất tranh chấp số 1 và số 2, tổng diện tích 5.274,7m2); yêu cầu buộc bà N trả lại Toàn bộ diện tích đất cầm cố, bà đồng ý trả phần giá trị đã cầm cố theo giá hiện nay cho bà N. Xét thấy, như nhận định tại mục [4] và [5] vừa nêu trên thì Toàn bộ phần đất tranh chấp là do ông H và bà S chuyển nhượng cho bà N, không có việc cầm cố đất xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên, vào thời điểm năm 1993 Nhà nước không cho phép chuyển nhượng đất được quy định tại Điều 5 Luật Đất đai năm 1987. Đồng thời, năm 1993 - 1994 ông H cũng chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với thửa đất trên, nên ông H chưa đủ điều kiện chuyển nhượng đất cho bà N được quy định tại Điều 693 của Bộ luật Dân sự năm 1995. Mặc dù bà N đã nhận đất từ khi chuyển nhượng và đã thực hiện Toàn bộ nghĩa vụ mà hai bên đã thoả thuận, nhưng không cung cấp được giấy tờ hoặc hợp đồng chuyển nhượng đất và cũng chưa kê khai đăng ký tại UBND có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai là chưa đảm bảo quy định tại Điều 707 của Bộ luật Dân sự năm 1995; tương ứng Điều 502 của Bộ luật Dân sự năm 2015; nên không đủ điều kiện công nhận hiệu lực của giao dịch đó, được quy định tại khoản 2 Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Chính vì vậy, giao dịch này đã bị vô hiệu theo quy định tại khoản 1 Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, HĐXX sẽ xử lý hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu theo khoản 2 và khoản 4 Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường; nên kháng cáo của bà P là có căn cứ chấp nhận một phần.
(ii) Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu: Việc hai bên chuyển nhượng đất vào thời điểm pháp luật về đất đai không cho phép chuyển nhượng và việc chuyển nhượng hai bên không có làm giấy tờ, nên hai bên đều có lỗi ngang nhau (mỗi bên có lỗi 50%). Theo Công văn số 722/TC-KH ngày 15/11/2023 xác định: Lúa tài nguyên khô giá 14.000 đồng/kg x 60 giạ x 20kg = 16.800.000 đồng; không có giá vịt đẻ; vịt hơi 43.000 đồng x 140kg (mỗi con khoảng 02 kg x 70 con) = 6.020.000 đồng; tổng cộng tiền chuyển nhượng đất là 22.880.000 đồng - giá trị đất là 5.068.987.000 đồng = 5.046.107.000 đồng, mỗi người phải chịu 50% lỗi, tương ứng số tiền 2.523.053.500 đồng. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 2 và khoản 5 Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Buộc bà N có nghĩa vụ trả cho ông H và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà S Toàn bộ diện tích đất tranh chấp và phải chịu thiệt hại tương ứng mức độ lỗi số tiền 2.523.053.500 đồng. Còn ông H và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà S có nghĩa vụ hoàn trả cho bà N giá chuyển nhượng đất số tiền 22.880.000 đồng và bồi thường cho bà N số tiền 2.523.053.500 đồng; tổng cộng số tiền 2.545.853.500 đồng.
(iii) Từ những nhận định tại mục [4], [5], [6] và [7] nêu trên, thấy rằng kháng cáo của ông H là không có căn cứ chấp nhận; còn kháng cáo của bà P là có căn cứ chấp nhận một phần; HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 6 Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, để sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Trần Đề theo hướng như vừa nhận định.
Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng (sau khi thay đổi) về việc yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2023/DS-ST ngày 20 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, do Tòa án cấp phúc thẩm đã khắc phục được toàn bộ những thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm. Xét thấy, kháng nghị nêu trên là có căn cứ chấp nhận như nhận định ở phần trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông H, bà P, bà L và ông B yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông H và bà P, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2023/DS-ST ngày 20/4/2023 của TAND huyện Trần Đề, theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H và chấp nhận yêu cầu độc lập của bà P là có căn cứ chấp nhận một phần như vừa nhận định ở phần trên.