Nội dung sửa án:
(i) Tuy nhiên cách mà cấp sơ thẩm nhận định về nội dung vụ án, căn cứ giải quyết vụ án và việc áp dụng pháp luật là thiếu sót và có những sai lầm nghiêm trọng, đó là:
Theo quy định tại Điều 167 của Luật đất đai năm 2013 thì đất đai không phải là đối tượng của hợp đồng cầm cố, hay nói một cách khác Nhà nước không cho phép việc người dân thực hiện giao dịch cầm có đất. Do đó cấp sơ thẩm tuyên buộc các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận lả có căn cứ. Tuy nhiên việc cấp sơ thẩm nhận định trong phần nội dung của bản án sơ thẩm, và phần quyết định tuyên về việc chấm dứt hợp đồng cầm cố là không đúng với quy định của pháp luật, phần nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm là trước sau bất nhất và mâu thuẫn với nhau.
Cấp sơ thẩm nhận định:“Hợp đồng cầm cố là quyền sử dụng đất” thì theo quy định khoản 1 Điều 167 Luật đất đai năm 2013 thì “ Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của luật này” cho nên bà T là người được nhà nước giao quyền sử dụng đất nên pháp luật không có quy định quyền cầm cố nên bà T vẫn có quyền thực hiện cầm cố vì pháp luật không cấm phù hợp với khoản 2 Điều 4 của Bộ luật dân sự năm 2015 là tự do thỏa thuận không trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự nên ưu tiên áp dụng Bộ luật dân sự.
Nếu theo nhận định này thì bà T có quyền cầm cố QSDĐ của mình cho bà Néang K1. Tuy nhiên phần nội dung của Quyết định thì lại tuyên bố “tạm dừng hợp đồng cầm cố đất” là có sự mâu thuẫn và thiếu nhất quán giữa phần nhận định và quyết định trong bản án.
(ii) Ngoài ra viêc cấp sơ thẩm nhận định về việc không áp dụng luật chuyên ngành là Luật đất đai để giải quyết vụ án mà áp dụng quy định của Bộ luật dân sự là một sai lầm nghiêm trọng về mặt nhận thức và áp dụng pháp luật. Bởi lẽ đối tượng tranh chấp trong vụ án này là QSDĐ thì Luật chuyên ngành là Luật đất đai phải được ưu tiên áp dụng chứ không phải là Bộ luật dân sự mà cụ thể ở đây là Điều 167 của Luật đất đai quy định về quyền của người sử dụng đất.
(iii) Về cách thức tuyên án trong phần nội dung của Quyết định: “Tuyên bố chấm dứt hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa bà Néang T và vợ chồng ông Chau L và bà Néang K”.
Xét thấy việc tuyên án của cấp sơ thẩm là không đúng với quy định của pháp luật, hoàn toàn không có khái niệm chấm dứt hợp đồng trong trường hợp này mà chỉ có công nhận tính có hiêu lực của hợp đồng hay tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà thôi và thực chất ở đây cấp sơ thẩm đã tuyên hơp đồng vô hiệu với kết quả là các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
(iv) Việc cấp sơ thẩm viện dẫn các điều khoản của luật để ban hành quyết định là không đúng, cụ thể là không áp dụng Điều 122, 123 và 131 để tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, áp dụng Điều 668 của bộ luật dân sự trong chương quy định về “pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” là không liên quan gì đến nội dung vụ án này, không áp dụng Điều 167 và 203 của Luật đất đai là có thiếu sót…
(v) Ngoài ra, việc cấp sơ thẩm áp dụng điều 292 và 295 của Bộ luật dân sự quy định về các biện pháp bảo đảm và tài sản bảo đảm cũng là không đúng và không cần thiết vì đây không phải là việc bên nguyên đơn dùng tài sản của mình dể thực hiện biện pháp bảo đảm trong giao dịch dân sự, mà thực chất là các bên tranh chấp với nhau về hợp đồng dân sự là hợp đồng cầm cố QSDĐ.
Đối với phần tách yêu cầu của bà Bà K4, ông L yêu cầu bà T trả 04 chỉ vàng 24 kara do bà S5 vay cần nêu ngắn gọn mà không cần phải nhắc lại nội dung,…
(vi) Ngoài ra việc cấp sơ thẩm tuyên buộc ông Chau L và bà Néang K phải chịu tiền án phí dân sơ thẩm cũng là không đúng vì là đối tượng người cao tuổi và cũng đã có đơn xin miển án phí
(vii) Xét thấy việc nhận định về nội dung, áp dụng pháp luật, cách tuyên án và việc buộc bị dơn phải chịu án phí của cấp sơ thẩm là những thiếu sót rất nghiêm trọng lẽ ra cần phải hủy án sơ thẩm.
Tuy nhiên kết quả cuối củng thì cấp sơ thẩm vẫn quyết định đúng bản chất của vấn đề và tuyên án các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận là đúng pháp luật.
Việc hủy án sẽ không làm thay đổi được bản chất nội dung của vụ án và gây ra những tốn kém không cần thiết cho người dân.
Tuy nhiên cấp sơ thẩm cũng cần phải nghiêm túc rút kinh nghiệm một cách sâu sắc với những thiếu sót vừa nêu.
Từ những tình tiết chứng cứ nêu trên xét thấy không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Néang K1 chỉ sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn về phần án phí cách tuyên án và áp dụng pháp luật.