Nội dung hủy án:
(i) Xét đơn kháng cáo của bà X và ông H có cùng nội dung giống như nhau tuy nhiên theo bản án sơ thẩm thì tư cách của bà X và ông H tham gia tố tụng khác nhau. Ông H cho rằng đất cấp cho hộ nhưng bà X tiến hành thỏa thuận không nhân danh đại diện chủ hộ, không có sự đồng ý của ông. Bà X cũng kháng cáo với nội dung như vậy trong khi bản án sơ thẩm nhận định bà X là người trực tiếp giao dịch nhưng cấp sơ thẩm không kiểm tra nội dung đơn kháng cáo theo Điều 274 Bộ luật Tố tụng dân sự để yêu cầu bà X sửa đổi, bổ sung kháng cáo cho đúng theo quy định của Điều 272 Bộ luật Tố tụng Dân sự mà vẫn chấp nhận đơn kháng cáo là không đúng quy định đã viện dẫn ở trên.
(ii) Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 243/QSDĐ/Hưng Long ngày 09/10/2001 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho hộ bà Trần Thị X trong đó thửa 251 tờ bản đồ số 13 có diện tích 858m2. Giấy chứng nhận nêu trên được cấp cho Hộ gia đình bà Trần Thị X theo Quyết định số 113/QĐ-UB ngày 19 tháng 4 năm 1995. Tại đơn xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất của bà Trần Thị X ngày 17/8/1994 thể hiện tại thời điểm xin cấp Giấy chứng nhận số nhân khẩu trong hộ bà Xê là 03 người. Tại công văn cung cấp thông tin ngày 01/12/2017 của Uỷ ban nhân dân xã L và Công văn số 4187/TNMT-PC của Phòng Tài nguyên và Môi trường - Ủy ban nhân dân huyện C thể hiện nguồn gốc đất là cấp cho hộ bà Trần Thị X. Tuy nhiên hồ sơ cấp Giấy chứng nhận không thể hiện cụ thể hộ gia đình bà Trần Thị X bao gồm những nhân khẩu nào. Theo quy định tại Mục 1 Chương IV Bộ luật dân sự 1995 về hộ gia đình và theo hướng dẫn tại khoản 4 phần 3 Văn bản số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ thì trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm cần tiến hành xác minh tại thời điểm được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì hộ bà X có bao nhiêu nhân khẩu để đưa những người đó tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới đảm bảo quyền lợi chính đáng của họ.
(iii) Hơn nữa, tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự trình bày năm 2008 giữa ông Trần Phát H và ông Nguyễn Thanh H có thỏa thuận về việc đổ đất lấp ao và phân chia đôi phần đất này. Thỏa thuận đổ đất, lấp ao của ông Nguyễn Thanh H và ông Trần Phát H xảy ra sau khi bà X đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 243/QSDĐ/Hưng Long ngày 09/10/2001. Đại diện nguyên đơn còn cho biết, tại thời điểm xin cấp Giấy chứng nhận, hộ bà X bao gồm các nhân khẩu: Trần Thị X, Trần Phát H, Trần Ngọc X. Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm có sự mâu thuẫn về lời khai khi ông Trần Phát H cho rằng ông là người đứng ra thỏa thuận lấp ao với ông Nguyễn Thanh H, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn và nguyên đơn cũng thừa nhận nội dung trên. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho biết bà Trần Ngọc X là nhân khẩu trong hộ khẩu của bà Trần Thị X từ năm 1976 đến năm 2013 mới tách khẩu. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy, đất cấp cho hộ gia đình nên cần thiết phải đưa các thành viên của hộ tham gia tố tụng, ghi nhận ý kiến của họ về nội dung thỏa thuận giữa ông Trần Phát H và ông Nguyễn Thanh H. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào thỏa thuận miệng của bà X và ông H mà công nhận phần đất tranh chấp cho ông H là chưa đủ căn cứ. Việc cấp sơ thẩm không xác minh và đưa các thành viên hộ bà Trần Thị X tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
(iv) Theo trình bày của các đương sự, sau khi đổ đất lấp ao phía ông H có xây dựng hàng rào xác định ranh và phía bà X cũng xây dựng hàng rào. Ngoài ra, ông H cho rằng diện tích đất tranh chấp do ông và gia đình thực tế quản lý sử dụng từ trước năm 1975 đến nay. Tuy nhiên theo Bản đồ hiện trạng vị trí số 10387/ĐĐBĐ_VPTP, ngày 24/07/2015 và Bản đồ hiện trạng vị trí số 100091/ĐĐBĐ_VPTP, ngày 26/12/2014 của Trung tâm đo đạc bản đồ – Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh không thể hiện rõ có hàng rào hay không. Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ để xác định hiện trạng có hàng rào như lời trình bày của đương sự không, ai là người xây dựng hàng rào và xây dựng vào thời điểm nào. Từ đó xem xét đánh giá việc phân chia8 phần đất tranh chấp đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn có hợp pháp hay không mới có cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn hay chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn một cách toàn diện khách quan. Vì vậy, việc xác minh thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm đối với nội dung này là chưa đầy đủ.
(v) Đối với việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm, bà Trần Thị X tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Nguyễn Thanh H nhưng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 106 và Điều 136 Luật đất đai năm 2013; Điều 192 Bộ luật dân sự năm 2005 để giải quyết vụ án là chưa phù hợp. Bởi lẽ cấp sơ thẩm cho rằng xuất phát từ giao dịch bằng miệng về việc phân chia quyền sử dụng đất vào thời điểm năm 2008. Do đó pháp luật áp dụng là Luật Đất đai năm 2003 và các quy định về giao dịch chuyển quyền sử dụng đất theo Bộ luật dân sự năm 2005 để xem xét giải quyết mới phù hợp. Xét trình bày của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đối với nội dung trên là có cơ sở nên chấp nhận.
(vi) Án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn công nhận phần đất tranh chấp cho phía bị đơn nhưng lại kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện C thu hồi, điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà X là vi phạm Điều 34 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
(vii) Về án phí: bản án sơ thẩm xác định nguyên đơn phải chịu án phí có giá ngạch khi các bên chỉ yêu cầu xác định phần đất tranh chấp là thuộc quyền sử dụng của ai mà Toà án không xem xét giá trị của phần đất tranh chấp là không đúng với quy định tại điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.