Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2022/DS-PT ngày 24/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng về tranh chấp hợp kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:

(i) Nguyên đơn khởi kiện lần đầu tiên tại Toà án là đòi lại diện tích đất 463m2 và huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bị đơn. Quá trình giải X vụ án, nguyên đơn rút yêu cầu kiện đòi tài S, thay đổi yêu cầu khởi kiện là chia di S thừa kế. Tuy nhiên, do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu và thay đổi sau thời điểm Toà án mở phiên họp nên Toà án không giải X đối với yêu cầu chia di S thừa kế. Toà án hai cấp đã xét xử đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc đòi lại diện tích đất 463m2; huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng cấp ngày 28/9/2007 cho hộ ông Vũ Văn C. Bản án dân sự phúc thẩm số 210/2020/DS-PT ngày 13/10/2020 của Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có hiệu lực thi hành. Sau đó, ông B tiếp tục khởi kiện đòi lại diện tích đất 463m2, quá trình Toà án cấp sơ thẩm giải X, bị đơn yêu cầu: Toà án công nhận “Đơn xin nhượng đất” và “Đơn xin nhượng nhà” lập cùng ngày 02/8/1989 giữa người chuyển nhượng là cụ Đ1 với người làm đơn là bà Vũ Thị Suy (X). “Đơn xin nhượng bán tài S và giao quyền sử dụng đất ngày 20/6/1996” giữa người bán là cụ Đ1 và người mua là ông Vũ Văn C để từ đó công nhận diện tích đất 463m2 và toàn bộ tài S trên đất T2ộc quyền sử dụng và quyền sở hữu của vợ chồng ông C. Toà án cấp sơ thẩm xác định đây là yêu cầu phản tố của bị đơn nên khi nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện thì xác định bị đơn trở thành nguyên đơn và ngược lại. Tại Bản án Dân sự sơ thẩm số 09/2021/DS-ST ngày 16/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện K đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Yêu cầu của ông C thực chất chỉ là quan điểm của ông C đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không làm phát sinh quan hệ pháp luật tranh chấp. “Đơn xin nhượng đất”, “Đơn xin nhượng nhà” cùng lập ngày 02/8/1989 giữa người chuyển nhượng là cụ Đ1 với người làm đơn là bà Vũ Thị Suy; “Đơn xin nhượng bán tài S và giao quyền sử dụng đất ngày 20/6/1996” giữa người bán là cụ Đ1 và người mua là ông Vũ Văn C chính là tài liệu, chứng cứ để đánh giá, xác định có hay không việc đã chuyển nhượng đất từ cụ Đ1 cho bà X, diện tích và vị trí diện tích đất đã chuyển nhượng để từ đó chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Việc các bên tranh chấp cùng một tài S, việc xem xét, giải X yêu cầu của nguyên đơn cũng chính là xem xét, giải X yêu cầu của bị đơn. Toà án cấp sơ thẩm xác định yêu cầu của ông C là yêu cầu phản tố của bị đơn là chưa đúng với quy định tại Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nếu những tài liệu, chứng cứ này hợp pháp và có căn cứ thì bị đơn chỉ cần đến cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai mà không cần yêu cầu Toà án giải X.

(ii) “Đơn xin nhượng đất”, “Đơn xin nhượng nhà” cùng lập ngày 02/8/1989 giữa người chuyển nhượng là cụ Đ1 với người làm đơn là bà Vũ Thị Suy (X), được bà X cho biết là do bà X tự viết dưới sự hướng dẫn và chứng kiến của Trưởng thôn thời điểm đó là ông Hồi. Tuy nhiên, ông Hồi đã chết và tại hai đơn này không có chữ ký hay nội dung nào phản ánh có người làm chứng. Trong khi đó, các con của cụ Đ1 cho biết là cụ Đ1 không biết chữ, không có đương sự nào nộp được mẫu chữ ký của cụ Đ1 nên không tiến hành giám định được. Các đơn xin chuyển nhượng là để gửi Uỷ ban xã MT nhưng Uỷ ban xã cho biết không biết việc này; những người làm chứng sống cùng thôn cho biết họ chỉ nghe nói lại, không ai biết và trực tiếp chứng kiến việc mua bán này. Đơn chuyển nhượng nhà, đất không có thoả T2ận về giá chuyển nhượng, vị trí đất cụ thể như thế nào. Bà X trình bày giá chuyển nhượng đất là 01 tấn thóc nhưng đơn xin chuyển nhượng nêu trên không có nội dung này và không có tài liệu nào chứng minh có việc này. Thời điểm chuyển nhượng đất cụ S3 vẫn còn sống nhưng không có chữ ký của cụ S3. Trong khi đó các con của cụ Đ1, cụ S3 xác định cụ Đ1 không biết chữ và chỉ cho bà X mượn đất, không có nhà (bà X cũng xác nhận không có nhà) vì khi đó bà X hoàn cảnh rất khó khăn. Đối với “Đơn xin nhượng bán tài S và giao quyền sử dụng đất ngày 20/6/1996” giữa người bán là cụ Đ1 và người mua là ông Vũ Văn C, được ông C cho biết là do ông Hồi viết hộ, hiện ông Hồi đã chết; chữ ký tại đơn này có đúng của cụ Đ1 hay không thì ông C không xác định được. Đơn này cũng gửi Uỷ ban xã MT nhưng Uỷ ban xã xác định không biết về việc này. Ông Phạm Văn Thể là trưởng thôn xác nhận tại đơn này: “Xác nhận đơn trình bày của bà Đ1 và anh C là đúng. Vậy kính chuyển lên các cấp có thẩm quyền xét duyệt và giải X”, nhưng nay ông Thể xác nhận đơn này là do ông C mang đến, ông Thể không chứng kiến việc mua bán giữa họ và không xác định được có đúng chữ ký của cụ Đ1 hay không và do nể tình làng, nghĩa xóm mà xác nhận cho ông C như vậy. Uỷ ban xã xác nhận vị trí diện tích đất mô tả trong đơn ngày 20/6/1996 không đúng thực tế. Uỷ ban xã cũng xác nhận một phần diện tích đất đã cấp giấy chứng nhận cho ông C có nguồn gốc là đất của cụ Đ1 đứng tên tại sổ mục kê năm 1985. Do vậy, “Đơn xin nhượng đất”, “Đơn xin nhượng nhà” cùng lập ngày 02/8/1989 giữa người chuyển nhượng là cụ Đ1 với người làm đơn là bà Vũ Thị Suy (X); “Đơn xin nhượng bán tài S và giao quyền sử dụng đất ngày 20/6/1996” giữa ông C và cụ Đ1 không đảm bảo tính khách quan, không có cơ sở để xác định cụ Đ1 đã ký vào các văn bản này nên không có căn cứ để xác định cụ Đ1 đã chuyển nhượng đất cho bà X và ông C. Cơ quan có thẩm quyền đã căn cứ vào “Đơn xin nhượng bán tài S và giao quyền sử dụng đất ngày 20/6/1996” để thiết lập hồ sơ và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông C là không đúng quy định của pháp luật nên Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2019/DS-ST ngày 27/9/2019 của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng và Bản án dân sự phúc thẩm số 210/2020/DS-PT ngày 13/10/2020 của Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã tuyên huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông C ngày 28/9/2007 là có căn cứ. Khi tuyên huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ ông C thì hai bản án nêu trên đã nhận định và đánh giá về các tài liệu bị đơn xuất trình là các văn bản giao dịch chuyển nhượng đất giữa bà X, ông C với cụ Đ1 là không có căn cứ có nghĩa là đã xem xét, giải X chính yêu cầu của ông C. Bản án dân sự phúc thẩm số 210/2020/DS-PT ngày 13/10/2020 đã có hiệu lực thi hành thì nay Bản án Dân sự sơ thẩm số 09/2021/DS-ST ngày 16/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng tiếp tục đánh giá lại và đã đánh giá tài liệu, chứng cứ không khách quan, không toàn diện nên đã có X định ngược lại với X định Bản án dân sự phúc thẩm số 210/2020/DS-PT ngày 13/10/2020 đã có hiệu lực pháp luật là không đúng quy định của pháp luật. Lẽ ra, khi nguyên đơn - ông B rút đơn khởi kiện thì Toà án cấp sơ thẩm cần đình chỉ giải X vụ án. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý, giải X yêu cầu phản tố của bị đơn – ông C là không đúng; X định của bản án sơ thẩm ngược lại với X định của Bản án dân sự phúc thẩm số 210/2020/DS-PT ngày 13/10/2020 đã có hiệu lực pháp luật là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn nên cần chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Văn B, huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải X vụ án – Điều 311, điểm g khoản 1 Điều 217, điểm a, c khoản 1 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông B có quyền khởi kiện lại vụ án.

Bài viết liên quan

Góp ý