Bản án dân sự phúc thẩm số 223/2024/DS-PT ngày 19/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về việc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cầm cố quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:

(i) Cấp sơ thẩm nhận định tại Bản án số 212/2023/DS-ST ngày 29/9/2023 đối với yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp, quyết định công nhận sự tự nguyện chuyển nhượng một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với diện tích 3500m2 nhưng công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích đất 3.964m2 (đo thực tế 3964m2 thể hiện tại các mốc điểm 2,3,4,5,6,7,8,9,23,24,25,26) cho bà Đ, ông Ự (theo bản vẽ ngày 04/8/2020 của Văn phòng Đ19, nhưng lại dành quyền khởi kiện cho đồng thừa kế của ông Phạm Văn H7(chết) Nguyễn Thị L(N (chết) đối với yêu cầu nhận lại diện tích 464m2 và yêu cầu ông Ự bà Đ13 trả thêm 33 chỉ vàng 24k loại vàng 9999 bằng một vụ kiện khác nếu có yêu cầu là giải quyết chưa hết nội dung yêu cầu khởi kiện và không đảm bảo quyền lợi của các nguyên đơn.

(ii) Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02703 QSDĐ/hB do Ủy ban nhân dân huyện C cho ông Phạm Văn H9 tổng diện tích 12.081 m2, gồm có các thửa số 3302, 3344, 3347. Trong đó, thửa đất số 3302, có diện tích là 2281m2 tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các đương sự đều xác định ông H3, bà Lđã chuyển nhượng cho ông Cao Lý T10 diện tích đất này thì ông T3 còn có nhận chuyển nhượng diện tích đất của ông R(nguồn gốc của ông H3, bà L chuyển nhượng cho ông R1 bản vẽ ngày 04/8/2020 của Văn phòng Đ1Chi nhánh huyện C diện tích thửa đất này là 2281 m2, tổng diện tích ông T3 đang quản lý sử dụng 5690 m2 đã được cấp phúc thẩm nhận dịnh tại Bản án số 237/2016/DS-PT ngày 28/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xác định các diện tích đất chưa được làm rõ và các đương sự xác định ông H3 chỉ có 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không đưa ông Cao Lý T8 tham gia với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót nên đã hủy Bản án sơ thẩm số 12/2016/DS-ST ngày 20/01/2016 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới giao hồ sơ về cho cấp sơ thẩm xét xử lại.

(iii) Đối với diện tích đất 6.051m2 các đương sự không thống nhất về quan hệ giao dịch và giá giao dịch hợp đồng, chứng cứ do phía bị đơn cung cấp là Tờ bán đất ngày 16/10/2021, không thể hiện chữ ký, chữ viết của ông H3, bà L1. Đồng thời, các đương sự có trình bày việc đi hỏi giá vàng, bán vàng, trả tiền vào ngân hàng có sự tham gia của con ông Ự, bà Đ là bà Trịnh Thị D2 T4 nhưng cấp sơ thẩm chưa đối chất giữa các đương sự với người làm chứng để làm rõ nội dung thỏa thuận về giao dịch nhưng tuyên công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo tờ bán đất ngày 16/10/2001, buộc các đồng thừa kế của ông Phạm Văn H7(chết năm 2009) Nguyễn Thị L(Nguyễn Thị L1 (chết năm 2016) gồm: Bà Phạm Thị V, ông Phạm Tấn T7 P có nghĩa vụ giao cho ông Trịnh Minh Ự3, bà Võ Thị Đ tổng diện tích đất 10.015m2 đất 02 lúa (trong đó gồm 02 thửa: Thửa thứ nhất thể hiện tại các điểm 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 23, 24, 25, 26 có diện tích 3964m2 và thửa thứ hai thể hiện tại các điểm 6, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 9, 8, 7 có diện tích 6051,0m2), vị trí đất tọa lạc ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang là chưa phù hợp làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các nguyên đơn.

(iv) Đồng thời, tại phiên tòa ông Ự, bà Đ xác định ông H3, bà L chuyển nhượng cả 03 thửa đất nhưng cũng thừa nhận theo thỏa thuận chuyển nhượng đất theo giấy của ông H7 và diện tích hiện đang quản lý, sử dụng là có nhiều hơn. Hiện nay, ông Ự, bà Đ14 đang giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02703/hB được Ủy ban nhân dân huyện C cho ông Phạm Văn H10 ngày 21/01/1999, trong đó còn có 01 thửa đất số 3302 là phần đất của gia đình ông H3 đã chuyển nhượng cho ông Cao L4 T3 đất tọa lạc ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang, việc tuyên công nhận cả hợp đồng giao đất cho phía ông Ự, bà Đ theo bản vẽ ngày 04/8/2020 của Văn phòng Đ1Chi nhánh huyện C, có thửa đất 3347 cấp sơ thẩm xác định chuyển nhượng 3.500 m2 đất nhưng diện tích của thửa đất 3347 theo giấy đất diện tích là 7.328 m2, diện tích theo bản vẽ thể hiện là 3964,0 m2, chưa xác định diện tích đất còn lại của thửa đất này ở vị trí nào và ai đang quản lý, sử dụng. Cấp sơ thẩm chưa ghi nhận ý kiến của ông Cao Lý T1 nhận chuyển nhượng bao nhiêu m2 đất, giá chuyển nhượng bao nhiêu đất là không thể thực hiện được trong giai đoạn thi hành án, cũng như chưa xem xét đến quyền lợi của ông Cao Lý T11.

(v) Trong việc xác định tư cách của đương sự chưa chính xác căn cứ theo đơn khởi kiện ngày 17/7/2014, các ông bà Nguyễn Thị L1(Nguyễn Thị L, Phạm Thị V, Phạm Tấn T, Phạm Tấn T Thị Thu D, Phạm Thị Thu T Thị H, Phạm T H1, Phạm Thị Thanh H2 cùng đứng đơn khởi kiện và thực hiện nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0000399 ngày 22/10//2014 (Bút lục số 32, Bút lục số 39) nên được xác định các ông bà là nguyên đơn nhưng tại bản sán sơ thẩm số 212/2023/DS-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xác định các ông bà Phạm Thị V, Phạm T12 T, Phạm Tấn T1, Phạm Thị Thu D, Phạm Thị Thu T Thị H, Phạm T H1, Phạm Thị Thanh H2 chỉ người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị L1(Nguyễn Thị L5 khi bà Nguyễn Thị L(Nguyễn Thị L1 chết năm 2016 là chưa chính xác mà vẫn phải xác định các ông bà Nguyễn Thị L1(Nguyễn Thị L, Phạm Thị V, Phạm Tấn T, Phạm Tấn T, Thị Thu D, Phạm Thị Thu T Thị H, Phạm T H1, Phạm Thị Thanh H2 là nguyên đơn và vừa là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị L (Nguyễn Thị L1).

(vi) Đối với những vi phạm về thủ tục tố tụng và những thiếu sót nêu trên, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới về việc vi phạm về nội dung của cấp sơ thẩm là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới về một phần nội dung và một phần nội dung kháng cáo của nguyên đơn hủy bản án dân sự sơ thẩm; chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo trình tự thủ tục sơ thẩm.

Bài viết liên quan

Góp ý