Nội dung hủy, sửa án:
(i) Phạm vi giải quyết: Theo đơn khởi kiện ngày 18/01/2018, nguyên đơn bà Đoàn Phước B yêu cầu bị đơn trả lại 4.349 m2 thuộc các thửa 393, 441, 442, 502, 505, 727 tờ bản đồ 27 theo GCNQSDĐ số vào sổ H 01061 và thửa 566 tờ bản đồ 27, xã T, huyện B theo GCNQSDĐ số vào sổ H 01064 do UBND huyện T (nay là Bắc Tân U) cấp cho bà Đoàn Thị V1 ngày 25/12/2008, nhưng theo đo đạc thực tế, 07 (bảy) thửa đất tranh chấp có diện tích 3.830,3m2. Trong quá trình tham gia tố tụng, bà B và những người thừa kế của bà B không có đơn khởi kiện bổ sung và Tòa án cũng không có thông báo thụ lý bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuy nhiên, Bản án sơ thẩm đã xác định nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại các thửa đất khác ngoài 07 thửa đất nêu trên, cụ thể như sau: diện tích 234,7m2 thuộc thửa 565; diện tích 2,1m2 thuộc thửa 724; diện tích 20,7m2 thuộc thửa 270, tờ bản đồ 28; diện tích 129m2 thuộc thửa 333; diện tích 32,9m2 thuộc thửa 1, tờ bản đồ 27 tại xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương. Theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 64 – 2018 ngày 23/4/2018 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện B: các thửa đất 565, 724 thể hiện trong GCNQSDĐ cấp cho bà C; thửa 270 thể hiện trong GCNQSDĐ cấp cho ông Đặng Minh C2 (ông C2 không tham gia tố tụng); thửa 333 thể hiện trong GCNQSDĐ cấp cho bà Nguyễn Thị Thùy D1. Như vậy, các thửa đất 565, 724, 270, 333 và 01 ngoài phạm vi khởi kiện ban đầu của bà B và các thửa đất 565, 724, 270, 333 thuộc quyền sử dụng của người khác, không phải của bà B và của bà V1. Trường hợp chủ sử dụng các thửa đất 565, 724, 270, 333 và bà B (nay là những người thừa kế của bà B) có tranh chấp thì các bên có quyền khởi kiện và được giải quyết tại một vụ kiện khác. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cũng thừa nhận chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết đối với 07 thửa đất như đã thể hiện trong đơn khởi kiện ban đầu của bà B. Do đó, bản án sơ thẩm tuyên buộc bị đơn phải trả lại cho nguyên đơn một phần diện tích đất thuộc các thửa 565, 724, 270, 333 và 01 là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự vì đã giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu của nguyên đơn và không đúng chủ thể. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần phải hủy một phần bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết đối với các thửa đất 565, 724, 270, 333 và 01.
(ii)Về nội dung:
…
Quá trình sử dụng đất cũng được các bên trình bày mâu thuẫn: Theo nguyên đơn, bà B là người được cha, mẹ tặng cho quyền sử dụng đất và cho người khác thuê từ năm 1979, nhưng không được bị đơn thừa nhận và không có văn bản tặng cho, phân chia hoặc chứng cứ nào khác để chứng minh. Tình tiết các thửa đất được đưa vào tập đoàn sản xuất và được tập đoàn trả lại cũng không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh. Trong khi đó, ông Đoàn Văn Q (em ruột của ông T5 và bà B) lại trình bày nguồn gốc đất do ông Q khai hoang, sử dụng một thời gian rồi giao lại cho ông T5 tiếp tục sử dụng. Người thuê đất, ông Trần Văn B1 cũng xác nhận thuê đất của ông T5, bà V1 và việc thuê đất, trả tiền thuê có giấy tờ chứng minh rõ ràng. Tài sản trên đất hiện nay là các cây tràm do ông B1, người thuê đất trồng.
…
Căn cứ vào hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ thì thấy rằng bà Đoàn Phước B không đăng ký và không được cấp quyền sử dụng 07 thửa đất tranh chấp: 393, 441, 442, 502, 505, 727 và 566 tờ bản đồ 27, xã T, huyện B. Kết quả giám định ban đầu của Phòng K Công an tỉnh B kết luận “Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất”, đề ngày 09/3/1998 là do bà Đoàn Phước B ký tên, nhưng tại Kết luận giám định số 271/C09B, ngày 27/12/2018 của Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh – V3 kết luận: Không đủ cơ sở để kết luận chữ ký mang tên Đoàn Phước B dưới mục “người sử dụng đất ký” trên tài liệu “Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất” đề ngày 09/03/1998. Các kết quả giám định khác cho thấy chữ viết trên các hồ sơ đăng ký đều không phải của bà B và ông T5 hoặc không thể xác định được người viết. Tuy nhiên, kết luận giám định chữ ký, chữ viết của bà B và ông T5 trên các đơn đăng ký quyền sử dụng đất cũng không có ý nghĩa quyết định tính hợp pháp của việc cấp GCNQSDĐ. Các đơn đăng ký có thể được người khác (cán bộ địa chính) ghi hộ. Vấn đề cần chứng minh trong vụ việc này là ý chí thực của các bên như thế nào đối với các đơn đăng ký và GCNQSDĐ được cấp.
Xét thấy, việc đăng ký kê khai để cấp GCNQSDĐ đã được UBND xã thông báo công khai đến các hộ gia đình, trong đó bà Đoàn Phước B, ông Đoàn Văn T5 và những người anh, em ruột trong gia đình đã tham gia đăng ký, có tên trong sổ địa chính và được cấp GCNQSDĐ như phân tích tại mục [2.4] nêu trên. Khi nhận GCNQSDĐ, bà B đương nhiên phải biết và buộc phải biết số lượng thửa đất và diện tích đất được cấp, nếu thấy còn thiếu so với số lượng thửa và diện tích đất đã đăng ký và đang sử dụng thì có quyền khiếu nại. Theo lời trình bày của bà B và sau này những người thừa kế của bà B đều cho rằng ông T5 là người đăng ký đất thay bà B và cố ý bỏ sót 07 thửa đất; khi nhận GCNQSDĐ thì bà B đã phát hiện ra thiếu đất và có đòi ông T5 trả lại, ông T5 có hứa trả nhưng sau đó không trả. Tuy nhiên, phía bị đơn không thừa nhận có sự việc này và nay phía nguyên đơn cũng không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh có việc phản đối hoặc tranh chấp với ông T5 vào thời điểm ông T5 (và kể cả khi bà V1) được cấp GCNQSDĐ, không có việc ông T5 và bà V1 cam kết trả lại đất. Điều này thể hiện bà B và ông T5 đã đăng ký kê khai và được cấp GCNQSDĐ đối với các thửa đất đúng với ý chí của mình.
Bản án sơ thẩm chủ yếu nhận định dựa vào lời khai của các bên đương sự và người làm chứng để liên kết các tình tiết, sau đó suy đoán và kết luận các thửa đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà B có nguồn gốc được cha, mẹ tặng cho; không công nhận hồ sơ đăng ký và cấp GCNQSDĐ của ông T5 là không có căn cứ. Công văn số 410/UBND-ĐC ngày 08/10/2018 của UBND xã T kèm theo là Biên bản làm việc ngày 01/10/2018 giữa đại diện UBND xã T và những người sinh sống tại ấp A, xã T cũng chỉ cung cấp thông tin dựa trên lời khai của một số người dân sinh sống tại khu vực, trong khi những lời khai này không được chứng minh một cách rõ ràng bằng các chứng cứ cụ thể. UBND xã T cũng không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của đương sự ngoài hồ sơ đăng ký và cấp GCNQSDĐ mà Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã thu thập được như đã được phân tích tại mục [2.4] nêu trên. Các đoạn ghi âm do đương sự cung cấp không rõ hoàn cảnh xuất xứ, không công khai minh bạch khi ghi âm và nội dung trao đổi của những người trong các đoạn ghi âm là rời rạc, không rõ ràng, không thể chứng minh được quyền sử dụng đất hợp pháp.
(iii) Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được UBND xã T chứng thực ngày 24/11/2008, nhưng theo Kết luận giám định số 182/GĐ-PC54 ngày 28/6/2018 của Phòng K - Công an tỉnh B (bút lục 336) và lời khai của ông Trần Hữu T1 thì ông T1 đã giả chữ ký, chữ viết, dấu vân tay của ông Đoàn Văn T5 trong “Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng” đất để hỗ trợ bà V1 làm thủ tục sang tên GCNQSDĐ. Ông T1 là con ruột bà B, là người biết (buộc phải biết) nguồn gốc sử dụng các thửa đất của ông T5, nhưng vẫn hỗ trợ bà V1 làm hồ sơ chuyển nhượng là đã thể hiện ý chí thừa nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của ông T5 và sau này là bà V1. Việc ông T1 khai rằng ông hỗ trợ bà V1 làm thủ tục chuyển nhượng là do bà V1 có hứa hẹn khi nào có được GCNQSDĐ sẽ làm thủ tục tách trả lại 07 thửa đất cho bà B và vì tin tưởng bà V1 là chị trong dòng họ nên ông T1 đồng ý chỉ là lời khai đơn phương, không được bà V1 thừa nhận. Bản án sơ thẩm nhận định có sự thỏa thuận của bà V1 sẽ tách trả lại 07 thửa đất tranh chấp cho bà B là hoàn toàn không có căn cứ và có tính chủ quan.