MỤC LỤC
1. Bản án dân sự phúc thẩm số 75/2023/DS-PT ngày 22/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về tranh chấp phân chia di sản theo di chúc.
Nội dung hủy án:
(i) Thủ tục thụ lý vụ án:
Các bên đương sự trong vụ án đều thừa nhận tại thời điểm lập Bản di chúc ngày 02/5/2006, bà T1 còn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép, nội dung bản di chúc đúng ý chí của bà T1 và có mặt các con cháu đều biết và cùng ký vào bản di chúc.
Theo Điều 633 BLDS 2005 quy định thời điểm, địa điểm mở thừa kế
“1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này……….”.
Theo quy định trên thì sau khi người để lại di sản chết thì di sản thừa kế mới được phân chia cho những người thừa kế theo di chúc. Trong vụ án này, tuy bà T1 lập Bản di chúc định đoạt tài sản là quyền sử dụng đất của bà để lại cho con, cháu, nhưng bản di chúc được tất cả mọi người ký tên trong đó, sau khi lập bản di chúc bà T1 đã giao đất cho các con và cháu sử dụng ổn định từ thời điểm đó, những phần đất này đã được bà T1 phân chia, định đoạt trước khi bà T1 chết. Trong số những người được chia đất có bà Đào Thị R và bà Đào Thị N đã làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất được chia, nên cần phải xác định đây là việc bà T1 lập giấy tặng cho quyền sử dụng đất cho các con và cháu. Phần diện tích đất còn lại giao cho ông Đào Văn D trồng cây và ở sau này với điều kiện khi bà T1 mất đi ông D mới được sử dụng là di sản thừa kế. Như vậy, những người được chia đất nêu trên có quyền lợi độc lập với nhau. Khi phát sinh tranh chấp, ông B và ông D có đơn khởi kiện đối với bà R thì ông B, ông D là nguyên đơn, bà R là bị đơn, những người còn lại bao gồm bà N1, bà Y, bà N, ông C, bà L nếu có yêu cầu Tòa án xem xét buộc bà R có trách nhiệm tách thửa đối với diện tích của hộ được chia thì họ là Người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và phải có đơn yêu cầu để Tòa án thụ lý để giải quyết. Tòa cấp sơ thẩm không hướng dẫn những người này làm đơn yêu cầu nhưng vẫn giải quyết vụ án và buộc bà R có nghĩa vụ phân chia quyền sử dụng đất cho những người này là không đúng, vượt quá yêu cầu của đương sự.
(ii) Các đương sự đều thống nhất việc bà T1 lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất trên cho bà R vào ngày 26/7/2013 để giúp bà R vay tiền ngân hàng, diện tích đất bà T1 tặng cho bà R là 10.832,2m2 bao gồm cả các diện tích đất bà T1 đã chia giao cho các con, cháu từ năm 2006. Căn cứ vào hợp đồng trên, bà R đã làm các thủ tục và được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Nay bà R chỉ đồng ý tách quyền sử dụng đất cho những người được chia đất, riêng phần diện tích đất còn lại bà không đồng ý giao cho ông D. Như vậy, tính đến thời điểm Tòa án thụ lý giải quyết thì diện tích đất trên được định đoạt bằng 2(hai) giao dịch, và cả hai giao dịch này hiện vẫn đang tồn tại, Nay các bên đang có tranh chấp đối với bản di chúc và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà T1 và bà R, khi giải quyết vụ án, cần phải xem xét tính pháp lý của cả hai giao dịch trên, nếu công nhận quyền sử dụng đất cho những người được chia đất như trong Bản di chúc thì phải tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà T1 và bà R là vô hiệu. Cấp sơ thẩm cho rằng nguyên đơn có ý kiến không cần hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà T1 và bà R và UBND xã T không còn lưu giữ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất này để không xem xét giải quyết là không đúng quy định vì bản Hợp đồng này đã được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai cung cấp (BL 324).
(iii) Theo bản di chúc ngày 02/5/2006 thì thời điểm đó diện tích đất của bà T1 là là 13.532m2 (trong đó có 400m2 đất thổ cư). Đến ngày ngày 19/9/2006, bà T1 được cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 644439, đất đứng tên hộ bà Trần Thị T1, diện tích đất còn lại 12.001m2. Đến ngày 08/7/2013, được cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN076052 đứng tên hộ bà Trần Thị T1, diện tích đất còn lại 10.832,2m2. Khi giải quyết lại vụ án cấp sơ thẩm cũng chưa làm việc với các cơ quan chức năng để xác định rõ lý do diện tích đất bị giảm để giải quyết vụ án.
(iv) Kết quả đo đạc diện tích đất các bên đang sử dụng ngày 29/7/2022 không được thẩm định nên có sai sót, không đúng với thực tế. Cụ thể, kết quả đo đạc xác định ông B đang sử dụng 02 thửa đất, gồm thửa số 29B có diện tích 812,5m2 và thửa 29E diện tích 250.0m2 (BL 444), kết quả này là không đúng, vì thực tế ông B chỉ sử dụng thửa 29E. Cấp sơ thẩm không phát hiện ra sai sót này nhưng vẫn tuyên ông B được sử dụng thửa 29E, còn ông C được sử dụng thửa 29B là không đúng và không thể thi hành án được.
(v) Ngoài các nội dung trên, thì việc xác định những người thừa kế của ông Đào Văn M cũng chưa được cấp sơ thẩm thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là người thừa kế theo quy định của pháp luật. Đồng thời trong bản án chỉ xác định bà Y là người thừa kế của ông M mà không xác định các con ông M là đồng thừa kế là thiếu sót.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, việc xác minh, thu thập chứng cứ và giải quyết vụ án không đầy đủ dẫn đến việc giải quyết vụ án không triệt để, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được vì vậy cần hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên kháng các của bị đơn bà R được chấp nhận 1 phần.
(vi) Đối với phần tranh chấp hợp đồng vay tài sản: Hội đồng xét xử xét thấy việc giải quyết lại vụ án có liên quan đến việc xem xét lại tính hợp pháp của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà T1 và bà Đào Thị R và tính hợp pháp của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 076326, mà hiện nay bà L Thị T2 đang giữ. Do vậy để giải quyết vụ án triệt để Hội đồng xét xử xét thấy cần hủy phần quyền định thỏa thuận giữa bà Đào Thị R và bà L Thị T2 về hợp đồng vay tài sản để Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định pháp luật.
2. Bản án dân sự phúc thẩm số 188/2024/DS-PT ngày 05/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp thừa kế tài sản.
Nội dung hủy án:
Theo đơn khởi kiện ngày 19 tháng 5 năm 2020, nguyên đơn ông Dương Phước H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố hủy Hợp đồng ủy quyền ngày 03/12/2019, số công chứng 12775, quyển số 12TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C1 chứng nhận và hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13 tháng 02 năm 2020 giữa bà Lê Thị H1 và ông Cao Minh V được Văn phòng C quyển số 02 TP/CCSCC/HĐGD; ngày 06/8/2020, bị đơn bà Lê Thị H1 có đơn phản tố yêu cầu Tòa án công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13 tháng 02 năm 2020 và ngày 19 tháng 8 năm 2023, bà H1 có đơn phản tố bổ sung yêu cầu Tòa án công nhận di chúc của bà Lê Thị Dung H5 lập ngày 22 tháng 11 năm 2019 có hiệu lực. Với nội dung yêu cầu của các đương sự nêu trên phải xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu công nhận hiệu lực của di chúc”. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp thừa kế tài sản” là chưa chính xác.
(ii) Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Lê Văn X, tiến hành lấy lời khai một số người con của ông X. Trong đó một số người yêu cầu được chia thừa kế, gồm: ông Lê Văn T4 (bút lục 188), bà Lê Thị Xuân D (bút lục 39, 43), ông Lê Sơn T3, bà Lê Thị Yến O, bà Nguyễn Thị N (bút lục 186) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không giải thích, hướng dẫn cho các đương sự thực hiện quyền yêu cầu chia di sản thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản bà H5 để lại trong vụ án mà cho rằng do đương sự không có đơn yêu cầu chia thừa kế theo quy định nên tách ra giải quyết một vụ án khác khi có yêu cầu là giải quyết không toàn diện, triệt để vụ án, không giải quyết hết yêu cầu của đương sự.
Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm việc hết với tất cả các người con của ông Lê Văn X (gồm: ông Lê Tống Đ, ông Lê Minh Đ1, bà Lê Thị Thanh H4) để xác định rõ ý kiến và yêu cầu của họ mà đã quyết định đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng quyền lợi của đương sự trong vụ án.
(iii) Nguồn gốc tài sản tranh chấp như nhận định tại mục [1.4], ngày 20/10/2019, ông Dương Phước H lập văn bản xác nhận quyền sử dụng đất số 180, tờ bản đồ số 28-2 tọa lạc tại khu C, phường P là tài sản riêng của bà H5. Trên cơ sở xác nhận của ông H, bà H5 ủy quyền toàn phần cho bà H1 đối với quyền sử dụng đất nói trên. Sau khi có ủy quyền của bà H5, bà H1 đã tiến hành thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ngày 13/02/2020, bà H1 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 97m2 thửa đất số 180, tờ bản đồ số 28-2 tọa lạc tại khu C phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương cho ông Cao Minh V với giá 2.600.000.000 đồng. Ông V đã giao cho bà H1 số tiền 1.940.000.000 đồng.
Như vậy, tại thời điểm bà H1 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông V thì bà H5 đã chết, theo quy định của pháp luật tại khoản 3, Điều 140 Bộ luật Dân sự thì hợp đồng ủy quyền giữa bà H5 và bà H1 chấm dứt hiệu lực pháp luật kể từ khi người được đại diện chết.
Tuy nhiên, trước khi bà H5 chết ngày 11/7/2019 vợ chồng ông H, bà H5 ký hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng cho ông V phần đất nói trên, nhận đặt cọc số tiền 650.000.000 đồng và giao đất cho ông V quản lý, sử dụng. Sau đó, do bị bệnh nặng nên bà H5 ủy quyền toàn phần cho bà H1 đối với quyền sử dụng đất của mình. Bà H1 nhân danh bà H5 ký hợp đồng chuyển nhượng với ông Cao Minh V và nhận số tiền còn lại. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị H1 với ông Cao Minh V đối với thửa đất số 180, tờ bản đồ số 28-2 tọa lạc tại khu C phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương đã được Văn phòng C công chứng số 1206, quyển số 02 TP/CCSCC/HĐGD ngày 13/02/2020. Như vậy, giao dịch chuyển nhượng giữa ông V và bà H1 là ngay tình.
Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ ý chí của bà H5 khi ủy quyền toàn phần cho bà H1, chưa làm rõ số tiền bà H1 đã nhận của ông V có được sử dụng vào mục đích điều trị bệnh hay không, đã sử dụng hết bao nhiêu.
(iv)Đối với yêu cầu phản tố tranh chấp di sản thừa kế của bà Lê Thị H1.
Bị đơn bà Lê Thị H1 có đơn yêu cầu phản tố, yêu cầu công nhận di chúc ngày 22/11/2019 do bà Lê Thị Dung H5 lập tại Bệnh viện Đ2 để lại diện tích 114m2 thửa đất số 180, tờ bản đồ số 28-2 địa chỉ tại khu C phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương cho bà Lê Thị H1 là hợp pháp. Xét thấy, di chúc ngày 22/11/2019 có hai người làm chứng là bà Nguyễn Thị Bách T6 và ông Nguyễn Trung H7 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không lấy lời khai của họ để xác định ý chí của bà H5 khi lập di chúc mà lại căn cứ Điều 638 Bộ luật Dân sự nhận định di chúc lập lại tại bệnh viện nhưng không có xác nhận của người phụ trách bệnh viện nên hình thức của di chúc không đảm bảo theo quy định của pháp luật nên di chúc không có hiệu lực pháp luật và bác yêu cầu của bị đơn là chưa đảm bảo căn cứ vững chắc.
3. Bản án dân sự phúc thẩm số 480/2023/DS-PT ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp chia thừa kế.
Nội dung hủy án:
(i) Đối với kháng nghị về việc Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm tố tụng do không thực hiện việc định giá các tài sản do anh T xây dựng từ năm 2016, Hội đồng xét xử thấy: Sau khi thụ lý lại vụ án để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xem xét, thẩm định lại tài sản tranh chấp và xác định năm 2016, anh T có xây dựng thêm các công trình: “1. Tại lối vào, anh T xây thêm tầng 2 (trước là nhà tầng 1) diện tích 40m2, lợp mái tôn; 2. Tại ngôi nhà 2 tầng có sửa chữa xây thêm 1 phần tầng 2 của ngôi nhà này, xây gạch, lợp tôn chống nóng, có hàng hiên lát gạch đỏ, mái kèo sắt không gỉ, diện tích khoảng 30m2 và cầu thang bằng inox; 3. 1 nhà tạm vật liệu xây dựng bằng tre nứa, lợp mái lá cọ, sân lát đá đen, diện tích 2m05x5m60”. Tuy quá trình giải quyết vụ án, bản thân anh T và các đương sự đều không đề nghị định giá các công trình xây dựng năm 2016 của anh T. Mặc dù những tài sản này đều được anh T xây dựng khi đang xảy ra tranh chấp và không được sự đồng ý của các đồng thừa kế khác là không đúng quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xem xét thẩm định nhưng quyết định không thực hiện việc định giá tài sản và nhận định trong trường hợp chia bằng hiện vật cho các thừa kế khác xâm phạm đến các công trình này thì anh T phải tháo dỡ để trả lại diện tích đất được chia cho các đồng thừa kế khác là chưa đảm bảo, bởi các công trình trên có công trình được xây dựng kiên cố, việc tháo dỡ có thể ảnh hưởng đến kết cấu công trình và gây lãng phí. Do đó, cần tiến hành định giá để xác định giá trị của các công trình xây dựng thêm, khi chia di sản thừa kế trong trường hợp phần công trình xây dựng trên đất thừa kế (có công trình xây dựng thêm) được giao cho người được hưởng di sản thừa kế bằng hiện vật thì giao cho họ tiếp tục sử dụng, xem xét lỗi của người xây dựng công trình và quyết định trách nhiệm của người được hưởng di sản đối với phần xây dựng thêm này. Do đó, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H8 về nội dung này có căn cứ chấp nhận.
(ii) Xác định hàng thừa kế của cụ Doãn H7 và cụ Hoàng Thị Đ: Theo lời khai thống nhất của các đương sự thì cụ Doãn H7 và cụ Hoàng Thị Đ sinh được 07 người con chung gồm: ông Doãn Quốc S, sinh năm 1923; bà Doãn Thị C, sinh năm 1929; ông Doãn N, sinh năm 1933; bà Doãn Thị Q1, sinh năm 1938; ông Doãn Ngọc H, sinh năm 1941; bà Doãn Thị M6, sinh năm 1944; ông Doãn Quốc B, sinh năm 1947. Ông Doãn Ngọc H chết năm 2020, những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông H gồm: anh Doãn Quốc T, sinh năm 1970; chị Doãn Mai H1, sinh năm 1973; anh Doãn Quốc Tr, sinh năm 1985. Bà Doãn Thị C chết năm 2019, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà C gồm: ông Đoàn Văn M3, sinh năm 1956; bà Đoàn Thị Như M, sinh năm 1958; bà Đoàn Doãn Thị Bích Vân, sinh năm 1960; ông Đoàn Quang M1, sinh năm 1961; ôngĐoàn Đức M2, sinh năm 1963. Ông Đoàn Văn M3 chết năm 2010, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông M3 gồm: bà Phạm Thanh H2, sinh năm 1957; chị Đoàn Thị P, sinh năm 1989; anh Đoàn Minh K, sinh năm 1992.
Ngoài ra, các ông, Bá, ông N, bà C, bà M6 (các bút lục 239-240, 211, 70- 71, 67) đều thống nhất thừa nhận năm 1940 cụ H7, cụ Đ có nhận bà Nguyễn Thị Đ1 về nuôi nhưng không làm thủ tục đăng ký nhận con nuôi; trong suốt thời gian từ những năm 1940 đến khi cụ H7 chết (năm 1975) và cụ Đ chết (năm 1986) bà Đ1 đã có nhiều đóng góp trong việc chăm sóc, phụng dưỡng cũng như phục vụ quá trình làm ăn của các cụ. Mặc dù bà Đ1 không xuất trình được giấy tờ về việc được cụ H7, cụ Đ nhận nuôi, nhưng căn cứ lời khai của các con của cụ H7, cụ Đ và thực tế bà Đ1 đã ở tại nhà cụ H7, cụ Đ từ khi về ở cho đến khi bà Đ1 chết. Hội đồng xét xử thấy: khi còn sống cụ H7, cụ Đ đã nhận bà Đ1 về nuôi từ năm 13 tuổi cho đến khi bà Đ1 trưởng thành, kết hôn; sau khi bà Đ1 kết hôn vẫn tiếp tục ở cùng chăm sóc, phụng dưỡng cụ H7, cụ Đ. Mặc dù việc cụ H7, cụ Đ nhận nuôi bà Nguyễn Thị Đ1 không được lập thành văn bản, cũng không làm thủ tục nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, căn cứ Điều 50 Luật nuôi con nuôi, Điều 23 Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ về đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế; Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/07/1981 của Tòa án nhân dân tối cao và Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì việc nhận con nuôi của cụ Đ, cụ H7 không trái pháp luật, không vi phạm đạo đức và trên thực tế, quan hệ giữa cha mẹ nuôi là cụ H7, cụ Đ và con nuôi là bà Đ1 đã được xác lập, các bên đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình; việc nhận nuôi bà Đ1 của cụ Đ, cụ H7 đã được tất cả các con của cụ Đ, cụ H7 công nhận. Do đó, có cơ sở xác định bà Nguyễn Thị Đ1 là con nuôi thực tế của cụ Doãn H7 và cụ Hoàng Thị Đ.
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định trong hồ sơ vụ án không có tài liệu chứng minh có việc nuôi dưỡng giữa cụ Đ, cụ H7 với bà Đ1 theo quy định pháp luật để xác định bà Đ1 không phải con nuôi của cụ H7, cụ Đ là không phản ánh đúng với thực tế khách quan của vụ án và không vận dụng đúng tinh thần của pháp luật về việc bảo vệ quan hệ nuôi con nuôi thực tế làm ảnh hưởng quyền lợi của người được nhận nuôi thực tế là bà Nguyễn Thị Đ1 theo quy định pháp luật.
(iii) Xét yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Doãn H7 và cụ Hoàng Thị Đ, Hội đồng xét xử thấy: Hồ sơ vụ án thể hiện cụ H7 chết không để lại di chúc, cụ Đ chết có để lại 02 di chúc lập ngày 24/7/1978 và ngày 16/01/1983.
Đối với di chúc ngày 16/01/1983 do bị đơn xuất trình: Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều không thừa nhận việc cụ Đ để lại di chúc ngày 16/01/1983. Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện trưng cầu giám định chữ ký dạng chữ viết “Đức” trong bản di chúc ngày 18/01/1983 với dạng chữ viết tại di chúc ngày 24/7/1978; tại kết luận giám định khẳng định không phải chữ ký của cụ Đ trong bản di chúc ngày 16/01/1983. Tòa án cấp sơ thẩm tiếp tục trưng cầu giám định chữ ký dạng chữ viết “Đức” tại dòng cuối bản di chúc ghi ngày 3 tháng 12 Nhâm Tuất tức (ngày 16/01/1983) với chữ ký dạng chữ viết “Đức” dưới dòng chữ “Hà Nội ngày 18/01/1983”, tại kết luận giám định số 2898 ngày 20/12/2010 của Viện Khoa học hình sự kết luận là do cùng một người viết ra. Như vậy, thì các di chúc ngày 16/01/1983 và ngày 18/01/1983 do bị đơn xuất trình là không hợp pháp.
Đối với di chúc ngày 24/7/1978: Tòa án cấp sơ thẩm nhận định chỉ liên quan đến ngôi nhà 107 Y là không đúng với tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Cụ thể tại Di chúc ngày 24/7/1978 (bút lục số 252-253) có nội dung: “…Dinh cơ ở xóm Tre, xã Yên Hòa, Từ Liêm, Hà Nội giao quyền thừa kế cho các con trai Doãn Quốc S, Doãn N, Doãn H, Doãn Quốc B trong đó con Doãn N chịu trách nhiệm quản lý chính các con gái Doãn Thị C, Doãn Thị Q1, Doãn Mỹ và cháu dâu Nguyễn Thị Đ1 có quyền được ở khi cần thiết nhưng không được đòi chia đất ở riêng hoặc để bán cho người ngoài…”. Hồ sơ vụ án thể hiện các đương sự đều thừa nhận cụ Đ có viết di chúc ngày 24/7/1978 nêu trên (bút lục 350-352). Tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ tính hợp pháp của di chúc ngày 24/7/1978 của cụ Đ để làm căn cứ giải quyết vụ án là không đúng quy định tại Điều 650 Bộ luật Dân sự, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
(iv) Mặt khác, hồ sơ vụ án thể hiện ngày 05/12/2005, ông Doãn Quốc S, bà Doãn Thị Q1 mặc dù cư trú tại Mỹ nhưng đã tiến hành lập Văn bản nhường quyền thừa kế tại phòng 304 - B8 tập thể O7, phố O8, quận Z5, thành phố H8, có chứng nhận của ông Nguyễn Quang P1 công chứng viên Phòng Công chứng số 3 thành phố H8 (bút lục số 536-537, 294-295). Tòa án cấp sơ thẩm đã không thực hiện các biện pháp tố tụng để xác định tính hợp pháp của Văn bản nhường quyền thừa kế ngày 05/12/2005 để làm căn cứ giải quyết vụ án, cụ thể như: Không thực hiện việc xác minh có hay không sự việc ông S, bà Q1 lập Văn bản nhường quyền thừa kế ngày 05/12/2005 nêu trên; không lấy ý kiến của các đương sự cũng như trích xuất từ Cục xuất nhập cảnh về thời gian ngày 05/12/2005 ông S, bà Q1 có nhập cảnh về Việt Nam hay không? Không tiến hành xác minh tại Văn phòng công chứng số 3 thành phố H8 liên quan đến hành vi chứng nhận tại Văn bản nhường quyền thừa kế ngày 05/12/2005 nêu trên của ông S, bà Q1. Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án và nhận định cho rằng Tòa án đã thực hiện việc ủy thác tư pháp để xác định địa chỉ và nguyện vọng của ông S, bà Q1 nhưng không có kết quả, áp dụng Án lệ số 06/2016 để giải quyết vụ án là chưa đủ căn cứ. Bởi lẽ, theo nội dung Án lệ số 06/2016 thể hiện quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện việc ủy thác tư pháp, thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn không xác định được địa chỉ và không thu thập được ý kiến của đương sự ở nước ngoài thì Tòa án xem xét giải quyết yêu cầu của nguyên đơn vắng mặt các đương sự ở nước ngoài. Trong vụ án này, ông B đã cung cấp được địa chỉ của ông S, bà Q1 tại Mỹ và cung cấp được tài liệu thể hiện ý kiến, quan điểm của ông S, bà Q1 gửi cho Tòa án cũng như gửi cho các đương sự; các đương sự cũng cung cấp các văn bản trình bày quan điểm của ông S, bà Q1. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp cũng như không làm rõ tính hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ này để làm căn cứ giải quyết vụ án. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án, ông B đều yêu cầu được xác lập quyền được hưởng kỷ phần thừa kế của ông S, bà Q1 theo Văn bản nhường quyền thừa kế ngày 05/12/2005. Trường hợp Văn bản nhường quyền thừa kế ngày 05/12/2005 của ông S, bà Q1 là hợp pháp thì việc áp dụng Án lệ số 06/2016 của Tòa án cấp sơ thẩm là không đúng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng thừa kế khác.
(v) Ngoài ra diện tích đất di sản rộng, tuy trên đất có nhiều công trình xây dựng nhưng có công trình xây dựng năm 1933, có công trình xây dựng năm 1954, có công trình xây dựng từ năm 1990. Tòa án cấp sơ thẩm khi xem xét thẩm định tại chỗ không xem xét kết cấu của các công trình đã xây dựng, để xem xét có thể chia di sản bằng hiện vật cho nguyên đơn theo yêu cầu hay không là chưa đảm bảo, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.
Từ những phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, đánh giá không đúng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án; sai sót trong việc xác định khối di sản thừa kế của cụ H7, cụ Đ để chia theo yêu cầu của các đương sự; thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự; tại cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên xét thấy cần phải hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để giao hồ sơ về cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo quy định pháp luật.
4. Bản án dân sự phúc thẩm số 106/2023/DS-PT ngày 01/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp yêu cầu hủy di chúc, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, kiện đòi tài sản và tranh chấp chia di sản thừa kế.
Nội dung hủy án:
Xét kháng cáo của Bà Thái Thị T HĐXX xét thấy:
Sau khi xét xử sơ thẩm xong, ngày 26 tháng 8 năm 2022 Bà Thái Thị T làm đơn kháng cáo, ngày 24 tháng 09 năm 2022 bà Nguyễn Thị Kim D bị đơn chết (Theo trích lục khai tử số 473/TLKT- BS ngày 26/9/2022 của UBND phường X, quận P, thành phố Hồ Chí Minh). Tòa án đã ra thông báo và đã ra quyết định tạm đình chỉ vụ án để cùng các bên đương sự tìm kiếm những người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Nguyễn Thị Kim D nhưng không có kết quả. Đây là tình tiết mới phát sinh trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung, khắc phục được. Do vậy HĐXX chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn Bà Thái Thị T - Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 101/2022/DSST ngày 16 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án Tòa án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột giải quyết lại vụ án từ giai đoạn sơ thẩm theo thủ tục chung mới đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự theo quy định của pháp luật.
5. Bản án dân sự phúc thẩm số 31/2020/DS-PT ngày 27/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về hủy di chúc đã công chứng và đòi tài sản.
Nội dung hủy án:
(i) Ngoài yêu cầu hủy di chúc, đòi tài sản, bà Thái Thị T còn yêu cầu Tòa án hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xác định quan hệ tranh chấp là “Hủy di chúc đã công chứng và đòi tài sản” là thiếu sót, chưa đầy đủ.
(ii) Trong đơn khởi kiện bổ sung ngày 04/01/2016, nguyên đơn đã cung cấp địa chỉ mới của ông Trần Quốc V, bà Lê Thị Mỹ H tại địa chỉ đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành tống đạt văn bản, hoặc xác minh tại địa chỉ trên mà tiến hành niêm yết văn bản tại địa chỉ cũ; đồng thời, Toà án cấp sơ thẩm không xác minh nơi cư trú tại Công an phường mà xác minh thông qua UBND phường là chưa đầy đủ, vi phạm khoản 5 Điều 152 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), khoản 2 Điều 5 Nghị định 31/2014/NĐ-CP ngày 18/4/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú. Tuy nhiên, ông V bà H đã có đơn từ chối tham gia các phiên toà phiên họp, đã nhận bản án sơ thẩm và không có kháng cáo nên Toà án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
(iii) Bà Thái Thị T khởi kiện đòi nhà và đất thuộc thửa đất số 67, tờ bản đồ 20, diện tích 296,6m2, địa chỉ đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Hiện nay, thửa đất trên đã được tách thành 02 thửa: thửa đất số 67, tờ bản đồ số 20, diện tích 152,9m2 thuộc quyền sử dụng của bà Phạm Thị L; thửa đất số 166, tờ bản đồ số 20, diện tích 143,7m2 thuộc quyền sử dụng của chị Hoàng Thị Thuý D. Tại Biên bản định giá tài sản ngày 16/01/2015 (BL 70 - 71), biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 09/3/2016 (BL 166-167) thể hiện tại thửa đất tranh chấp nhà chia thành 03 ki ốt đang cho thuê, móng xây đá hộc, tường xây gạch, lát gạch ceramic, mái lợp tôn, trần nhựa. Tại chứng thư thẩm định giá ngày 20/3/2018 (BL 263-275) thể hiện thời điểm xây dựng nhà đã lâu, có một phần nhà mới được sửa chữa, nâng cấp lại. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành xác minh, thu thập các tài liệu, chứng cứ về sự tồn tại của căn nhà tại thời điểm mở thừa kế, cũng như nguồn gốc, thời điểm xây dựng, chủ sở hữu của căn nhà hiện tại, mà đã nhận định ngôi nhà cũ của ông H không còn tồn tại, tài sản định giá là tài sản của những người thuê đất để kinh doanh là không có cơ sở. Mặt khác, người thuê nhà Phạm Thị H có bản tự khai nhưng Toà án cấp sơ thẩm không làm rõ về quyền sở hữu đối với căn nhà và không đưa người thuê các ki ốt còn lại vào tham gia tố tụng để làm rõ các vấn đề trên. Đây là các thiếu sót làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và những người thuê nhà.
(iv) Về việc định giá tài sản tranh chấp:
Ngày 16/01/2015, Toà án cấp sơ thẩm đã thành lập hội đồng định giá tài sản đối với nhà và đất tranh chấp. Ngày 18/01/2018, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị định giá lại toàn bộ tài sản vì thời điểm định giá lần đầu đã lâu. Tại Công văn số 53/CV-TA ngày 31/01/2018, Toà án cấp sơ thẩm cho rằng đương sự không đồng ý với giá mà Toà án đã thành lập hội đồng định giá ngày 16/01/2015 và yêu cầu thẩm định giá lại nên Toà án đề nghị Công ty Thẩm định giá M – Chi nhánh B thẩm định tài sản.
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 5 Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì:
“2. Các đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản và cung cấp kết quả thẩm định giá cho Tòa án.
…
3. Tòa án ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;
b) Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau hoặc không thỏa thuận được giá tài sản;
c) Các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài sản theo mức giá thấp so với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba hoặc có căn cứ cho thấy tổ chức thẩm định giá tài sản đã vi phạm pháp luật khi thẩm định giá.
…
5. Việc định giá lại tài sản được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án dân sự.”
Như vậy, việc thẩm định giá tài sản thông qua tổ chức thẩm định giá tài sản chỉ do các đương sự thoả thuận, Toà án chỉ được định giá tài sản thông qua Hội đồng định giá quy định tại khoản 4 Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Đồng thời, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn chỉ yêu cầu Toà án định giá lại do kết quả định giá lần đầu năm 2015 không phù hợp với giá thị trường năm 2018. Việc Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu tổ chức thẩm định giá tài sản tiến hành định giá tài sản là vi phạm khoản 3 Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, là xâm phạm đến quyền lợi của các đương sự.
6. Bản án dân sự phúc thẩm số 540/2018/DS-PT ngày 30/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, hủy di chúc, liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công hcuwngs vô hiệu và hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu đất.
Nội dung hủy án:
(i) Đối với yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Lâm Anh L, bà Lâm A, bà Lý Lệ H yêu cầu Tòa án tuyên hủy tờ di chúc ngày 16/4/2002 đã được Ủy ban nhân dân Phường H, Quận S chứng thực ngày 26/4/2002 với lý do người lập di chúc bị bệnh ung thư giai đoạn cuối, sức khỏe kém, hay bệnh, bà S không biết đọc, viết tiếng Việt nhưng di chúc lập không có người làm chứng; bản khám sức khỏe vượt quá thời gian quy định nên việc lập di chúc trên không đúng với ý chí tự nguyện của bà S.
Hội đồng xét xử nhận thấy, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho rằng bà S không biết đọc, không biết viết tiếng Việt. Ngoài ra các ông bà còn cho rằng việc lập di chúc của bà Lâm Lên S được Ủy ban nhân dân Phường H, Quận S công chứng, chứng thực chưa đúng theo quy định. Căn cứ theo quy định tại Điều 655, Điều 661 Bộ luật Dân sự năm 1995; Nghị định số: 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 về công chứng, chứng thực và hướng dẫn tại Thông tư 03/2001/TT-TP-CC của Bộ Tư pháp ngày 14/3/2001 hướng dẫn thi hành Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 thì việc khám sức khỏe khi lập di chúc là không bắt buộc, người thực hiện công chứng, chứng thực phải xác định trạng thái tinh thần của người lập di chúc, trong trường hợp cần thiết thì người thực hiện công chứng có thể yêu cầu người lập di chúc xuất trình giấy khám sức khỏe. Đồng thời, việc có người làm chứng khi lập di chúc chỉ thực hiện khi người lập di chúc không biết đọc, không biết viết, không ký hoặc không điểm chỉ được thì cần phải có người làm chứng. Việc điểm chỉ có thể thực hiện đồng thời với việc ký hoặc việc điểm chỉ được thay thế cho việc ký nếu người yêu cầu công chứng không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Việc xác định di chúc ngày 16/4/2002 có hợp pháp hay không là mấu chốt để giải quyết yêu cầu của các bên đương sự. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cho rằng bà S không biết chữ và ngoài lời khai thì có cung cấp cho Tòa án ba tờ khai đăng ký tạm trú của bà S là Hộ trưởng vào thời điểm năm 1992, 1994, trong ba tờ khai này bà S chỉ vẽ một dấu cộng ở phần ký, còn tên là do bà Hoa ghi. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào ba tờ khai nêu trên làm căn cứ xác định bà Lâm Lên S không biết chữ, trong khi người đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho rằng bà S là người biết đọc, biết viết tiếng Việt vì bà đã từng thực hiện giao dịch đối với nhiều căn nhà. Ngoài ra, đại diện Ủy ban nhân dân Phường H, Quận S cho rằng việc chứng thực di chúc nói trên Ủy ban nhân dân đã làm đúng quy định pháp luật. Bà Lâm Lên S biết đọc, đã tự nhờ người đánh máy bên ngoài và đến Ủy ban yêu cầu chứng thực. Khi đến Ủy ban bà đã đọc rõ, thể hiện đúng ý chí của bà và Chủ tịch Ủy ban đã công bố lại nội dung di chúc, một lần nữa đúng ý chí của bà nên Chủ tịch đã chứng nhận di chúc nói trên. Đối chiếu với các quy định pháp luật về việc lập di chúc như Điều 661 Luật Dân sự năm 1995, nhận thấy việc lập di chúc là hoàn toàn đúng. Do đó, căn cứ xác định việc Ủy ban nhân dân Phường H, Quận S công chứng chứng thực không đúng theo quy định và Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy di chúc của bà Lâm Lên S là chưa đủ cơ sở vững chắc. Việc thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm là chưa đầy đủ và toàn diện, Tòa án cấp sơ thẩm cần tiến hành thu thập thêm chứng cứ và đối chất làm rõ lời trình bày có sự mâu thuẫn của các đương sự trong vụ án.
(ii) Mặt khác, do hủy di chúc của bà Lâm Lên S nên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số: 3566/2003 ngày 26/12/2003 do Ủy ban nhân dân Quận S cấp cho bà Lý Lệ Q. Đồng thời tuyên vô hiệu đối với Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở số 015194 ngày 08/7/2014 giữa bà Huỳnh Đoan T và bà Lý Lệ Q lập tại Văn phòng công chứng G. Theo quy định tại Điều 127 Bộ luật dân sự 2005 thì: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”. Các điều kiện quy định tại Điều 122 bao gồm: Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố vô hiệu đối với Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở số 015194 ngày 08/7/2014 và áp dụng quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 về giao dịch dân sự vô hiệu buộc các bên phải khôi phục tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận là chưa đúng quy định của pháp luật. Bởi lẽ, theo Điều 137 Bộ luật dân sự cũng quy định bên nào có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu phải bồi thường. Tại thời điểm giao kết hợp đồng, bà Q đã được Ủy ban nhân dân Quận S cấp Giấy chứng nhận hợp pháp, bà T là người mua ngay tình, việc mua bán đã hoàn thành xong các thủ tục theo đúng quy định của pháp luật từ năm 2014 đến nay. Tòa án cấp sơ thẩm cần định giá tài sản tranh chấp, xác định lỗi của các bên và tính toán thiệt hại, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu trong trường hợp xác định di chúc của bà S bị vô hiệu, mới đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự tham gia giao dịch.
(iii) Từ những phân tích nêu trên và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ mà cấp phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được, cần hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn xuất trình chứng cứ mới là Giấy xác nhận của ông Lê Văn T xác nhận bà Lâm Lên S có thể nghe được, nói được tiếng Việt Nam. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân Phường H, Quận S cung cấp bản sao sổ bộ năm 2002 thể hiện dấu điểm chỉ của bà S trong sổ bộ ngày 26/4/2002 vì cho rằng bản án sơ thẩm nhận định việc bà Lâm Lên S không ký hay điểm chỉ vào ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường chứng thực là không chính xác. Khi tiến hành giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần tiến hành xác minh các chứng cứ mới nêu trên và thu thập thêm chứng cứ làm căn cứ giải quyết vụ án.
7. Bản án dân sự phúc thẩm số 312/2023/DS-PT ngày 08/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về tranh chấp di sản thừa kế theo di chúc.
Nội dung hủy án:
(i) Xét về trình tự thủ tục tố tụng: Các đương sự trong vụ án như bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan như ông P, bà N2, bà C412 đều có ý kiến di chúc không hợp pháp nhưng cấp sơ thẩm không xem xét làm rõ về yêu cầu cụ thể của các đương sự là như thế nào. Tại phiên tòa phía bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều cho rằng do không hiểu biết pháp luật nên trước đó chỉ có ý kiến không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn. Nay đề nghị được yêu cầu chia theo pháp luật vì di chúc không hợp pháp. Do đó cấp sơ thẩm cần làm rõ yêu cầu cụ thể của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan như thế nào về phần đất do cụ Diên và cụ Quý để lại mới có cơ sở giải quyết triệt để vụ án.
(ii) Về nội dung: Tại phiên tòa phía nguyên đơn khẳng định theo bảng trích đo ngày 02/8/2018 phần đất thửa 13 có nhiều người sử dụng nhưng cấp sơ thẩm không xác định mỗi người đang sử dụng diện tích là bao nhiêu, nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận có vấn đề này.
Đối với thửa 46, diện tích 9.619,3m2 do ông Bùi Văn Thật đổi đất với bà Đỗ Kim N2, phần đất mà ông T1 và bà N2 đổi đất với nhau để sử dụng, cả hai đều đã được cấp quyền sử dụng đất nhưng khi đo vẽ để giải quyết tranh chấp thì cấp sơ thẩm xác định đây là phần đất liên quan đến di chúc nên đã quyết định buộc ông Bùi Thành T1, bà Võ Thị T6 cùng các con Bùi Hồng C3, Bùi Hữu T7, Bùi Hữu T8, Bùi Tình T9, Bùi Hồng D3, Ngô Thị Thùy Ngân, Lê Diễm M giao lại phần đất diện tích 9.619,3m2 cho bà Ý là không có căn cứ, không có khả năng thi hành án. Tại phiên tòa phúc thẩm bà Ý cũng không nhớ rõ lý do vì sao cấp sơ thẩm lại đo vẽ phần này để giải quyết, phía bị đơn thì xác định do bên nguyên đơn xác định và Tòa tiến hành đo đạc, bị đơn có ý kiến thì Tòa án cho rằng bên nguyên đơn khởi kiện thì nguyên đơn có quyền xác định đất nào là đất tranh chấp. Từ cơ sở trên xác định việc xem xét thẩm định là chưa chính xác về diện tích để giải quyết tranh chấp.
(iii) Đối với quyền sử dụng đất liên quan đến tranh chấp: Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ Bùi Văn Diên thể hiện diện tích cụ Diên được cấp là 68.220m2. Các đương sự phát sinh tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất thì cần xem xét thẩm định đo đạc phần đất cụ Diên để lại mới có đủ cơ sở xem xét giải quyết. Cấp sơ thẩm chưa thực hiện vấn đề này là có thiếu sót.
8. Bản án dân sự phúc thẩm số 187/2021/DS-PT ngày 20/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về tranh chấp thừa kế theo di chúc.
Nội dung hủy án:
Xét, anh Mai Thanh T là người đang trực tiếp quản lý và canh tác thửa đất tranh chấp số 896, diện tích 2.853m2 nhưng không được đưa vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa phúc thẩm. Do đó, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và đảm bảo hai cấp xét xử. Hội đồng xét xử cần hủy án sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung. Ngoài ra, bản án sơ thẩm nhận định cho rằng bà Nguyễn Thị X lập tờ hủy bỏ di chúc đã lập ngày 20/6/2012 là phù hợp quy định pháp luật, nhưng trong hồ sơ vụ án chỉ là bản photo và một số tài liệu, chứng cứ khác cũng bản photo là không đảm bảo giá trị pháp lý của chứng cứ theo quy định tại Điều 93, Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự.
9. Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2020/DS-PT ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp phân chia di sản thừa kế theo di chúc.
Nội dung hủy án:
(i) Xét tính hợp pháp của Di chúc do cụ Trần Thị M lập lần thứ nhất ngày 26/4/2006, được UBND phường L xác nhận ngày 16/6/2008:
Di chúc thể hiện nội dung: Tên tôi là Trần Thị M, hiện nay tôi đã già và yếu nên không biết sống chết lúc nào, để cho các con tôi sau này không có sự va chạm và tranh chấp với nhau. Hiện tại lô đất tôi đang ở có diện tích 270m2 (tại Khu X, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc) tôi chia ra như sau: Con trai tôi là Hoàng Văn Q được hưởng ¾ lô đất bằng 200m2; con gái tôi là Hoàng Thị P được hưởng ¼ lô đất bằng 70m2. Tôi cho con gái tôi ở phần mặt bằng đằng sau giáp nhà ông K1, bên cạnh giáp cổng đi nhà ông K2, đằng trước giáp đường đi liên xóm. Tôi viết di chúc này để lại sau khi tôi mất để làm bằng chứng cho các con tôi sau này. Vậy nhờ chính quyền địa phương thực hiện theo di chúc của tôi. Lúc này tôi vẫn còn minh mẫn và đọc cho chị Nguyễn Thị F1 cùng sống tại Khu X viết lại hộ tôi bản di chúc này vì tôi không biết chữ.
Di chúc được lập ngày 26/4/2006. Phía dưới di chúc thể hiện về việc cam kết của người viết hộ bà Nguyễn Thị F1 chứng nhận những lời cụ M đọc cho bà F1 viết là đúng sự thực, không ghi thêm, bớt gì. Đồng thời thể hiện có người chứng kiến về việc cụ M đọc cho bà F1 viết di chúc là đúng của ông Nguyễn Đức U1 và ông Phạm Như N2. Di chúc có điểm chỉ của người lập di chúc là cụ M.
Bản di chúc trên thể hiện được UBND phường L xác nhận nội dung: Bản di chúc của bà Trần Thị M được lập tại phường L. Điểm chỉ xác nhận tại trụ sở UBND phường L ngày 13/6/2008. Có chữ ký của cán bộ tư pháp là ông Nguyễn Trung T2 và có xác nhận của ông Trần Đình T2 – Phó Chủ tịch UBND phường ngày 16/6/2008.
Do cụ M là người không biết chữ, nên căn cứ theo khoản 3 Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 (khoản 3 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015) quy định: Di chúc hợp pháp của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự cung cấp bản di chúc gốc, đồng thời không lấy lời khai của người viết hộ di chúc là bà Nguyễn Thị F1, người chứng kiến cụ M lập di chúc là ông Nguyễn Đức U1, ông Phạm Như N2, xác minh làm rõ về việc xác nhận của UBND phường L vào bản di chúc cũng như việc lưu giữ bản di chúc trên trên để xem xét về ý chí của cụ M khi lập di chúc, về tính hợp pháp của bản di chúc, từ đó cấp sơ thẩm đã nhận định bản di chúc do cụ M lập không đúng thủ tục và không tuân theo quy định tại khoản 1 Điều 658 BLDS năm 2005 (quy định về thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn) là chưa thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để đánh giá tính hợp pháp của bản di chúc, đồng thời áp dụng chưa đúng quy định của pháp luật đối với việc lập di chúc của cụ M.
(ii) Xét tính hợp pháp của Di chúc do cụ Trần Thị M lập ngày 19/3/2012 tại Văn phòng Công chứng I (nay là Văn Phòng Công chứng Đ):
Theo Di chúc trên có nội dung: Tại Văn phòng Công chứng I, tôi ký tên dưới đây là bà Nguyễn Thị M… trong trạng thái tinh thần minh mẫn, sáng suốt theo Giấy khám sức khỏe do Bệnh viện Đa khoa thị xã D, tỉnh Bình Dương cấp ngày 08/02/2012, tôi lập di chúc này để lại tài sản là toàn bộ quyền sử dụng đất tại thửa đất số 94, tờ bản đồ số 51, địa chỉ thửa đất tại Khu X, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích là 270m2… để lại cho bà Lê Thị H …. Ngoài ra không để lại di sản thừa kế nêu trên cho bất kỳ ai. Để làm chứng cho việc lập di chúc, tôi có mời người làm chứng là bà Lê Thị Thanh T1… Người làm chứng trên là do tôi mời đến … Tôi đã được nghe công chứng viên đọc lại nội dung di chúc này và xác định di chúc đã được ghi chép chính xác, thể hiện đúng theo ý chí và nguyện vọng của tôi, tôi đồng ý toàn bộ nội dung ghi trong di chúc và ký tên, điểm chỉ vào di chúc này trước sự có mặt của Công chứng viên.
Phía dưới nội dung lập di chúc có điểm chỉ của cụ M và thể hiện người làm chứng Lê Thị Thanh T1 chứng kiến công chứng viên đọc lại nội dung di chúc cho cụ Trần Thị M nghe, đồng ý toàn bộ nội dung ghi trong di chúc và điểm chỉ vào di chúc (Bút lục 316-317) .
Tuy nhiên, theo hồ sơ đề nghị công chứng đối với di chúc của cụ M thể hiện: Đối với Phiếu khám sức khỏe ngày 08/02/2012 – là tài liệu Văn phòng Công chứng I căn cứ để xác định tình trạng sức khỏe, trạng thái tinh thần minh mẫn, sáng suốt của cụ M, thì Phiếu khám sức khỏe trên thể hiện đơn vị ban hành là Trung tâm Giám định Y khoa Pháp Y – Sở Y tế Bình Dương và có đóng dấu treo là Bệnh viện Đa khoa thị xã D, nhưng phía dưới thể hiện Bác sỹ Kết luận thuộc Khoa Khám bệnh – Hồi sức cấp cứu của Bệnh viện Đa khoa thị xã D; đồng thời có chữ ký của Giám đốc và đóng dấu của Bệnh viện Đa khoa thị xã D (Bút lục 308). Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ đối với Bệnh viện Đa khoa thị xã D hay Trung tâm Giám định Y khoa Pháp Y hoặc Sở Y tế đối với việc mâu thuẫn trong việc ban hành Phiếu khám sức khỏe cho cụ M nêu trên để từ đó làm cơ sở đánh giá tính khách quan của Phiếu khám sức khỏe cho cụ M.
Ngoài ra, đối với chị Lê Thị Thanh T1 là người làm chứng trong khi cụ M lập di chúc tại Văn phòng Công chứng I thể hiện có sự mâu thuẫn như: Tại Di chúc lập ngày 19/3/2012 thể hiện người làm chứng chị Lê Thị Thanh T1 do cụ M mời đến (Bút lục 316; 317); tại biên bản lấy lời khai ngày 06/5/2016 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L1, tỉnh Lâm Đồng, chị Lê Thị Thanh T1 lại trình bày chị làm chứng cho việc cụ M lập di chúc tại Văn phòng Công chứng I là do ngày 19/3/2012 chị đến Văn phòng Công chứng I cùng bạn tên U1 (không nhớ rõ họ và địa chỉ của anh U1) làm môi giới đất đai để công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chị đã chứng kiến cụ M tuyên bố nội dung di chúc để Văn phòng công chứng ghi lại, sau đó Công chứng viên đọc lại nội dung di chúc cho cụ M nghe, cụ M tự nguyện lăn tăy vào di chúc, chị ký và điểm chỉ vào di chúc (Bút lục 94). Tại biên bản xác minh ngày 10/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tại Văn phòng Công chứng I thì Văn phòng Công chứng I cung cấp: Chị Lê Thị Thanh T1 – người làm chứng trong di chúc ngày 19/3/2012 do cụ M lập tại Văn phòng Công chứng I là Kế toán làm việc tại Văn phòng Công chứng I vào năm 2012. Do cụ M, bà H không mời được người làm chứng nên Văn phòng đã chỉ định cô Tâm làm chứng cho cụ M và bà H (Bút lục 220).
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đề nghị xác định tính khách quan của người làm chứng là chị Lê Thị Thanh T1 đối với di chúc của cụ M lập ngày 19/3/2012 do có những mâu thuẫn nêu trên, đồng thời nhìn mắt thường thấy rằng chữ viết và chữ ký của chị T1 trong các bản di chúc lập tại Văn phòng Công chứng I so với chữ ký và chữ viết của chị T1 trong Biên bản lấy lời khai ngày 06/5/2016 không giống nhau. Vì vậy, để đánh giá tính khách quan của người làm chứng trong việc lập di chúc của cụ M, từ đó làm căn cứ xác định tính hợp pháp của di chúc được lập ngày 19/3/2012 và làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án, xét thấy việc đề nghị giám định chữ ký, chữ viết của chị T1 trong di chúc lập ngày 19/3/2012 với chữ ký, chữ viết của chị T1 trong biên bản lấy lời khai ngày 06/5/2016 theo đề nghị của bị đơn là cần thiết.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cũng đồng ý đề nghị giám định chữ ký, chữ viết của chị T1 theo quan điểm của bị đơn và cung cấp bản di chúc ngày 19/3/2012 có chữ ký gốc của chị T1 cho Tòa án để làm tài liệu cho việc trưng cầu giám định. Do có những vi phạm và tình tiết mới nêu trên, mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể khắc phục, bổ sung được và để bảo đảm quyền kháng cáo của đương sự cần hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại.
10. Bản án dân sự phúc thẩm số 318/2022/DS-PT ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về tranh chấp thừa kế theo di chúc, di sản dùng vào việc thờ cúng.
Nội dung hủy án:
Đối với yêu cầu ông Nguyễn Thành Đ khai bổ sung tại cơ quan có thẩm quyền về nội dung hạn chế của người sử dụng đất; đồng thời yêu cầu kiến nghị Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ CS 07433 ngày 16/5/2019 cấp cho Nguyễn Thành Đ để điều chỉnh, bổ sung nội dung hạn chế quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thành Đ, theo ý chí định đoạt của cụ Nguyễn Văn B1 và cụ Nguyễn Thị X.
Xét thấy, theo tờ di chúc do cụ B1 và cụ X lập ngày 22/6/2004, nội dung có đoạn “…số còn lại gồm đất thổ và đất quả là 2.206m2 (đất thổ 200m2), đất ruộng 29 sào (2.900m2), một cái nhà tường lợp tol thiết lót gạch bông và một số đồ đạc trang T2 trong nhà thuộc về vợ chồng tôi và con trai út tên Nguyễn Thành Đ quản lý và sử dụng. Sau khi vợ chồng tôi qua đời thì số tài sản còn lại của vợ chồng tôi giao cho Đại thừa hưởng, quản lý và lo việc cúng giỗ ông bà, không được sang bán….”. Như vậy, cụ B1 và cụ X đã xác định số tài sản còn lại là “đất thổ và đất quả là 2.206m2 (đất thổ 200m2), đất ruộng 29 sào (2.900m2), một cái nhà tường lợp tol thiết lót gạch bông và một số đồ đạc trang T2 trong nhà” là tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của hai cụ và ông Nguyễn Thành Đ, đây được xem là tài sản thuộc sở hữu chung của 03 người. Sau khi cụ B1 chết năm 2010, đối với phần đất ruộng qua đo đạc thực tế có diện tích là 2.657,1m2 các đồng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ B1 đã đến Ủy ban nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang lập văn bản phân chia tài sản thừa kế thống nhất cho ông Nguyễn Thành Đ được nhận thừa kế toàn bộ diện tích đất trên và ông Đ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích đất trên vào ngày 23/11/2011. Như vậy phần diện tích đất còn lại theo di chúc là 2.206m2 (qua đo đạc thực tế là 2132m2) đất thổ quả và một cái nhà tường lợp tol thiết lót gạch bông và một số đồ đạc trang T2 trong nhà vẫn là tài sản chung của cụ B1, cụ X và ông Đ, tuy nhiên theo nguyện vọng của cụ B1 và cụ X sau khi hai cụ qua đời số tài sản còn lại của hai cụ giao cho ông Đ thừa hưởng, quản lý không được sang bán. Như vậy phần tài sản của cụ B1 và cụ X là di sản giao cho ông Đ được thừa hưởng, quản lý nhưng không được quyền định đoạt. Theo nội dung văn bản số 702/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 21/02/2020 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang xác định “Về trình tự thủ tục, hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn Văn B1 và bà Nguyễn Thị X sang cho ông Nguyễn Thành Đ được Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện theo quy định tại Điều 79 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Tuy nhiên qua xem xét nội dung khởi kiện của nguyên đơn, các giấy tờ được Tòa án kèm theo thông báo, đồng thời liên kết với hồ sơ cấp giấy chứng nhận của ông Đ, Sở Tài nguyên và Môi trường nhận thấy Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Nguyễn Thành Đ cần bổ sung nội dung hạn chế của người sử dụng đất theo đúng ý nguyện của người để lại di sản cho phù hợp”. Tuy nhiên việc bà Tươi yêu cầu ông Đ khai bổ sung về nội dung hạn chế của người sử dụng đất đối với toàn bộ thửa đất số 320, tờ bản đồ số 9 diện tích 2132m2 và yêu cầu kiến nghị Sở tài nguyên và Môi trường thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ CS 07433 ngày 16/5/2019 cấp cho ông Đ để điều chỉnh, bổ sung nội dung hạn chế quyền sử dụng đất của ông Đ theo ý chí định đoạt của cụ B1 và cụ X là chưa hoàn toàn phù hợp. Bởi lẽ trong phần tài sản này là có phần tài sản của ông Đ. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện này của bà Tươi là chưa xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 21/11/2022, người đại diện ủy quyền của bà Tươi có yêu cầu Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa và yêu cầu Tòa án tiến hành đo đạc, xem xét thẩm định đối với thửa đất số 320 và tài sản trên đất là căn nhà của bà Ánh và ông Sơn để hai bên thỏa thuận nhưng đến ngày 22/11/2022 bà Tươi có văn bản không đồng ý thỏa thuận, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo là hạn chế toàn bộ thửa đất số 320, không yêu cầu Tòa án đo đạc, thẩm định.
Tuy nhiên cấp sơ thẩm chưa xác định phần tài sản là di sản của cụ B1 và cụ X trong phần tài sản còn lại theo di chúc, trên thửa đất số 320, diện tích 2.132m2 có căn nhà của bà Nguyễn Thị A và nhà của ông Nguyễn Văn S nhưng cấp sơ thẩm chưa tiến hành xem xét, thẩm định và định giá tài sản và cũng chưa có ý kiến của những người này đối với tài sản của họ trên thửa đất có tranh chấp, hơn nữa hàng thừa kế của cụ B1 và cụ X còn có bà Nguyễn Thị Hường nhưng cấp sơ thẩm chưa đưa vào tham gia tố tụng là thiếu sót, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Nhằm đảm bảo hai cấp xét xử cần hủy án sơ thẩm để cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.