Nội dung hủy án:
Hội đồng xét thấy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp số: d ngày c có nội dung giao kết không vi phạm điều cấm; phù hợp với chủ trương của Công ty cổ phần tư vấn Đầu tư và Xây lắp B; người được ủy quyền ký kết và đại diện pháp luật của Công ty đã biết, đã chấp thuận, không phản đối trong thời gian dài. Tại phiên tòa hôm nay hai bên đều xác nhận thực tế bị đơn là bên nhận chuyển nhượng cũng đã sử dụng công khai, phổ biến, rộng rãi nhãn hiệu “Q” đối tượng chuyển nhượng của Hợp đồng này trên các sản phẩm của mình, biển hiệu và chương trình quảng cáo mà bên chuyển nhượng không phản đối trong thời gian dài nhiều năm. Mặt khác, tại phiên tòa ông C thừa nhận việc ký hợp đồng là tự nguyện, không bị ép buộc, lừa dối, hợp đồng được ký tại văn phòng Công ty cổ phần tư vấn Đầu tư và Xây lắp B. Hợp đồng chuyển nhượng ngoài chữ ký của Giám đốc còn được đóng dấu của Công ty. Nên xác định là người có thẩm quyền của Công ty cổ phần tư vấn Đầu tư và Xây lắp B biết và chấp thuận mà không phản đối việc ký kết hợp đồng này.
Sau khi đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam việc chuyển giao này được công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày ký (ngày a), tuy nhiên phía nguyên đơn không hề có đơn khiếu nại hay phản đối. Do đó, ý kiến của Nguyên đơn cho rằng không biết có việc chuyển nhượng là không có căn cứ. Do vậy, Hợp đồng này đã phát sinh hiệu lực kể từ ngày đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (NOIP).
Đến ngày 21/6/2019, Công ty cổ phần tư vấn Đầu tư và Xây lắp B mới khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu là đã quá thời hiệu theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự 2015. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Hợp đồng này vi phạm điều cấm của pháp luật nên chấp thuận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên bố hợp đồng vô hiệu là không đúng, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.