Nội dung hủy án:
1. Tại bản khai ngày 14/3/2023 (BL 126) anh Phan Ngọc A khai đã chuyển đủ tiền thuê xe cho công ty V; Tại Biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 06/4/2023 (BL 167) anh Phan Ngọc A thay đổi lời khai trình bày ngoài chuyển trả trực tiếp cho anh L 69.200.000đồng anh Phan Ngọc A còn chuyển trả tiền thuê xe cho Công ty C 120.000.000 đồng vì Công ty C ép buộc anh chuyển tiền, sau đó anh Phan Ngọc A thay đổi lời khai cho rằng anh có gọi điện thoại cho anh L (Công ty V) và anh L đồng ý chuyển tiền cho Công ty C theo ý anh Từ Tấn C. Mặc dù lời khai còn có nhiều mâu thuẫn nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không lấy lời khai, đối chất làm rõ giữa ba bên (Công ty V, Công ty C và anh Phan Ngọc A) có thỏa thuận chuyển giao nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 Điều 370 Bộ luật Dân sự hay không và Công ty C có ép buộc hay không. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định Công ty C có hành vi cản trở, ép buộc trái pháp luật nên buộc Công ty C phải hoàn trả và bồi thường cho Công ty V 163.360.729đồng là không có cơ sở.
2. Mặt khác, anh Từ Tấn C trình bày Công ty C không có thỏa thuận cho Công ty V thuê xe ô-tô 43B-035.69 và xe ô-tô 43B-030.59 mà chỉ giao cho Công ty V bảo quản xe để giao cho Ngân hàng vì đây là tài sản thế chấp của ngân hàng. Trong quá trình quản lý Công ty V tự ý cho anh Phan Ngọc A thuê xe không báo cho công ty C biết. Ngược lại, Công ty V cung cấp cho tòa 02 Hợp đồng gồm hợp đồng thuê xe số 02 ngày 02/5/2021 và hợp đồng thuê xe số 04 ngày 02/5/2021 thời hạn thuê từ ngày 02/5/2021 đến 02/5/2023 giữa Công ty V và Công ty C. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm chưa lấy lời khai Công ty C về hai hợp đồng do Công ty V cung cấp cho tòa và đối chất giữa các bên để xác định Công ty V có quyền cho thuê 02 chiếc xe thuộc sở hữu của Công ty C hay không.
3. Theo biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 06/4/2023 anh Phan Ngọc A yêu cầu tòa án giải quyết số tiền 120.000.000đồng anh Phan Ngọc A chuyển cho Công ty C là số tiền anh Phan Ngọc A trả thuê xe của Công ty V. Nên đây được xem là yêu cầu độc lập của bị đơn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 5Điều 72 Bộ luật tố tụng Dân sự. Tuy nhiên, anh Phan Ngọc A không làm thủ tục yêu cầu độc lập, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn xét xử giải quyết số tiền 120.000.000 đồng, buộc Công ty C phải hoàn trả và bồi thường cho Công ty V 163.360.729 là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Đồng thời theo đơn khởi kiện Công ty V chỉ yêu cầu anh Phan Ngọc A trả tiền nhưng cấp sơ thẩm buộc Công ty C phải trả số tiền này là vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu của Công ty V.
4. Mặt khác, khi Tòa án cấp sơ thẩm hoãn phiên tòa đưa Công ty C vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án, nhưng cấp sơ thẩm không mở lại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định tại Điều 208 Bộ luật tố tụng Dân sự là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.